Hồi tưởng thời tị nạn
Hôm qua, nhân đọc một bài viết kể lại thảm cảnh 'thuyền nhân' vào đầu thập niên 1980 làm tôi có cảm hứng chia sẻ lại câu chuyện vượt biển của cá nhân tôi cũng vào đầu thập niên 1980s. Chuyện đã 40 năm rồi, nhiều phôi pha rồi. Nhưng cứ mỗi lần vào dịp này thì nhớ lại một cách lõm bõm và rời rạc. Viết ra trước là ghi lại hành trình của mình, sau là hi vọng tìm lại những người bạn tôi đề cập ở đây (nếu họ đọc được) từng ở các trại mà tôi đã tạm cư trên đất Thái Lan.
Tượng đài Thuyền Nhân (Boat Pepple) do Hội đồng thành phố Bankstown (bang New South Wales, Úc) dựng để tưởng nhớ những người đã bỏ mạng trên đường vượt biển tìm tự do và những đóng góp của cộng đồng Việt Nam vào xã hội Úc.
Đổ bộ làng chài Budi
Một ngày cuối tháng 2 năm 1981, một chếc ghe đi sông chở 23 người từ Việt Nam ghé bờ biển Budi ở miền Nam Thái Lan. Budi là một làng chài, giáp ranh giới với Mã Lai. Như vậy, sau 3 ngày và 3 đêm, chiếc ghe từ Rạch Giá, không có la bàn, đã rong rủi sang tận miền Nam Thái Lan. Phải nói sự sóng sót là một phép lạ. Đó cũng là thời điểm khởi đầu của một hành trình tị nạn của tôi, một cái "mốc" lịch sử không bao giờ phai nhòa trong kí ức.
Khi chúng tôi lên bờ, dân làng ở đây chạy ra xem, nhưng họ không biết làm gì với chúng tôi. Ghe chúng tôi là tốp người Việt đầu tiên đến cái làng chài này. Bất đồng ngôn ngữ, nên chỉ nói bằng ngôn ngữ cơ thể, ánh mắt và nụ cười. Khi ghe chúng tôi cập bờ thì trong ghe vẫn còn nhiều lương thực, nào là cơm khô, đường, muối, mấy thùng nước uống. Chúng tôi không biết làm gì với mấy thứ này, nên cho hết những người dân làng đến nơi. Có người hỏi xin 3 cái máy dầu vẫn còn rất tốt, chúng tôi cũng cho luôn. Đã lên bờ tự do thì cần gì mấy thứ này nữa, chúng tôi nghĩ vậy nên hễ ai xin cái gì là cho hết. Nghĩ lại dân tị nạn mà hào phóng ghê! Nhưng chính nhờ nghĩa cử hào phóng đó mà chúng tôi tạo được cảm tình ở người địa phương.
Người địa phương thì đa số vận sarong, rất tiêu biểu ở người miền nam Thái Lan (giáp ranh Mã Lai). Nhìn qua ánh mắt và lối sống, họ là những người rất hiền lành và chất phác. Không thấy ai lợi dụng chúng tôi. Sau này tôi mới biết đây là vùng biên giới Thái Lan - Mã Lai, rất nhiều người Hồi Giáo ở đây. Dạo đó, tôi không rõ những người mình gặp là Phật Giáo hay Hồi Giáo, nhưng thời đó chúng tôi chẳng quan tâm; điều quan trọng nhất là đến bến bờ tự do, và đó là điều may mắn nhất trên đời. Tôi đoán là họ là tín đồ Hồi Giáo, vì họ không ăn thịt heo. Họ cũng không ăn thịt gà chết, dù con gà mới chết có vài phút! Do đó, mỗi khi có gà chết là họ đem đến cho chúng tôi. Thành ra, tuy là dân tị nạn, nhưng thỉnh thoảng cũng có những bữa ăn thịnh soạn!
An cư trong ... nhà để xe
Sau khi cho đồ trên ghe, có người chạy đi báo cho cảnh sát. Khoảng vài phút sau thì một viên cảnh sát lái xe "pick-up" đến nơi. Anh cảnh sát này biết chút tiếng Anh, tuy không tốt mấy, nhưng đủ để biết chúng tôi là người Việt Nam. Anh ta gọi điện thoại một hồi thì thấy thêm vài chiếc xe pick-up khác đến cùng khoảng 5 viên cảnh sát. Họ bàn với nhau một lúc, rồi bảo chúng tôi tạm ở đây. Họ chỉ chúng tôi đến một cái nền xi măng trống và cũ kĩ, nguyên là nơi để xe hơi, và cứ ở đó trong khi họ tìm cách ... xử lí chúng tôi. Chúng tôi hè nhau gánh nước biển lên và lau sạch cái sân xi măng. Sau một giờ thì chúng tôi có cái sân rất oách để ngã lưng trong thời gian tới.
Khi đã tạm "an cư" sau chuyến hải hành, chúng tôi lăn ra ngủ, chẳng cần ý tứ gì cả, trước những cái nhìn ngạc nhiên của dân địa phương. Buổi chiều, dân địa phương thấy thương tình, nên họ đem cơm và thức ăn cho ăn. Một số thì đem gạo và nước mắm cùng mấy cái nồi cũ để nấu ăn. Sau 3-4 ngày đêm trên biển, đây là lần đầu chúng tôi có một bữa ăn đúng nghĩa. Ăn tập thể. Vừa vui, vừa ngon. Còn dân làng thì ngồi chung quanh nhìn chúng tôi ăn và mỉm cười hiền lành. Tôi đoán chắc họ cũng vui khi giúp được chút ít cho chúng tôi.
Và những dân làng hiền hậu
Đêm đầu tiên ở cái làng chài thì quả là một kinh nghiệm buồn cười. Đám thanh niên trong làng và [chắc cả các làng lân cận] kéo đến khá đông để ... nhìn. Họ chẳng làm gì cả, chỉ ngồi chồm hỗm, hút thuốc lá, cười cười nhìn chúng tôi đang co cụm trong cái sân xi măng. Chúng tôi, người thì nằm, kẻ ngồi, người hút thuốc lá tán dóc. Đêm đến, chỉ còn một số ở lại, vẫn hút thuốc lá và nhìn. Đám đàn ông thanh niên chúng tôi cảm thấy hơi bất an, nên bàn với nhau cách tự tự vệ. Trong chuyến đi, có vài người từng là sĩ quan quân lực VNCH, một số là dân chài, một số là thư sinh như tôi. Dưới sự chỉ huy của các sĩ quan, chúng tôi chia nhau ngồi quanh như là canh gác "lãnh địa" tị nạn và bí mật có sẵn "đồ chơi" để khi có biến động là đối phó ngay. Đêm xuống, dân làng cho mùng để ngủ, đám thanh niên đàn ông chúng tôi ngủ ở bìa ngoài, còn các bà và phụ nữ ngủ phía trong. Chúng tôi có một đêm ngủ đầu tiên trên đất tự do, sóng biển rì rào, trời thoáng, gió mát, chẳng mấy chút ai cũng chìm vào giấc ngủ.
Đến gần nửa đêm, tôi cảm nhận hình như có bàn tay sờ nhằm chân tôi. Tôi vẫn còn tĩnh thức, nên giả bộ ngủ xem bàn tay này làm gì. Đang chuẩn bị đối phó thì bên kia các anh thanh niên la lớn lên là "Có cướp", và thế là tôi nắm lấy tay của kẻ đang sờ soạn. Thế là chúng tôi tóm cổ họ một cách dễ dàng. Nhìn kĩ thì toàn là những thanh niên hồi chiều hút thuốc ngồi chồm hỗm nhìn chúng tôi. Hình như họ muốn sờ mó mấy cô mấy bà, nhưng họ không ngờ rằng chúng tôi đã có chiến lược bảo vệ. Bắt được họ, chúng tôi chẳng biết làm gì, còn họ thì vẫn cười hề hề. Anh sĩ quan trưởng nhóm đánh giá rằng nhìn đám thanh niên này cũng hiền lành, nên thôi cho chúng đi. Hình như dân làng ở đây lần đầu tiên thấy người nước ngoài nên họ rất tò mò.
Những người anh em mới tới ...
Chúng tôi ở đó được chừng một tuần thì một chiếc tàu (lần này là "tàu" đánh cá) cũng từ Việt Nam ghé Budi. Tàu này chỉ có khoảng 10 thanh niên (tôi không nhớ con số chính xác), nghe nói họ làm cho một hợp tác xã đánh cá và sẵn dịp lấy tàu trốn khỏi Việt Nam. Nhóm này cũng đi từ Rạch Giá, nhưng xuất phát từ U Minh. Họ nghèo rớt mồng tơi, gần như không có một tài sản nào cả. Nhóm thanh niên này rất giỏi đi biển, nên có thêm họ trong nhóm chúng tôi thấy như có thêm "lực lượng võ trang" để có gì thì ứng phó tốt hơn.
Vài ngày sau, lại thêm một chiếc tàu khác ghé Budi. Tàu này lớn hơn, chở hơn 40 người đi từ Cà Mau. Tàu này "giàu" hơn hẳn hai tàu trước, dù đã bị cướp biển hai lần. Hành trình của họ khá gian nan, phải gần một tuần lễ mới tới Budi. Trong chiếc tàu mới này có cả con nít và nhiều "thành phần kinh tế" hơn. Trong đó, có một chú mà tôi quen gọi là "Chú Ba Trung Tá" đầu bạc trắng, sau này quen thân với tôi. Gọi "Chú Ba Trung Tá" là vì chú là một cựu phi công cấp bậc trung tá, sau 1975 đi tù cải tạo vài năm, được thả ra và chú tìm đường vượt biên. Chú là người gốc Bình Định, cũng nghèo xơ xác như tôi (chỉ có cái quần đùi và áo sơ mi), và chú hay nói chuyện tiếu lâm rất vui. Chú từng học ở Mĩ nên rất giỏi tiếng Anh, và chú trở thành thông dịch viên cho tất cả 3 nhóm thuyền nhân.
Ngoài Chú Ba TT, trong nhóm còn có một nhân vật đặc biệt gọi là "Anh Ba Hà Nội". Anh Ba là một kí giả [hình như là đài Tiếng Nói Việt Nam] từ Hà Nội vào Nam công tác. Anh có quen với một chị từng là chiêu đãi viên của Hãng Hàng Không Việt Nam trước 1975, và sau này hai người thành hôn (mãi đến sau này chị mới biết anh đã có vợ ngoài Bắc). Tuy làm việc cho chế độ nhưng anh chẳng ưa chế độ, nên nhân dịp vào Nam anh cùng với chị bỏ đi vượt biên theo nhóm 23 người chúng tôi. Phải lên bờ Thái Lan người ta mới biết anh là "cộng sản", và những thuyền nhân thông cảm cho anh, ai cũng cố gắng bảo vệ anh, vì cái lí lịch cộng sản đó có thể làm anh bỏ mạng như chơi.
Kể ra thì cũng hay, một người VNCH cùng với một anh kí giả "cộng sản" tôi đều kết bạn thân. Chuyện anh Ba Hà Nội có một kết cục buồn. Sau khi anh và chị được đi định cư ở Úc khoảng hơn 20 năm thì anh mất tích, gia đình nghĩ và xem như anh đã qua đời ở đâu đó, và chúng tôi mất một người bạn mà đến giờ nhắc đến anh ai cũng tiếc.
Hòa mình vào dân làng
Budi là một làng chài rất tiêu biểu ở Đông Nam Á, rất thơ mộng và an bình. Những hàng dừa cao vút làm bóng mát cho cả làng. Những cây dừa rất cao và thẳng. Nhìn mấy hàng dừa này tôi tự hỏi làm sao có thể leo lên để hái dừa được. Nhưng vài ngày sau thì tôi biết, vì họ dùng khỉ để hái dừa. Những con khỉ nhỏ xíu, được mặc áo đàng hoàng, thừa lệnh của chủ, chúng thoăn thoắt leo lên cây dừa và hái dừa quăng xuống cát. Nhìn mấy con khỉ hái dừa tôi thán phục cái tài thuần hóa của người dân địa phương.
Cái làng này dù ở rất xa thành phố nhưng đã giàu có hơn Việt Nam rất nhiều. Nhà dân ở chủ yếu là nhà sàn. Nhà nào cũng có xe hơi, thường là xe pick-up Toyota. Trên bờ thì đường lộ thẳng băng và xe hơi nhiều hơn xe gắn máy. Dân làng dĩ nhiên làm nghề biển. Những chiếc ghe nho nhỏ, giống như ghe ở Kiên Giang, tối đi câu mực hay đánh cá, sáng cặp bến và đàn bà con gái ra gỡ lưới. Cuộc sống của họ phụ thuộc vào biển, và chỉ xoay quanh cái làng chài thơ mộng đó.
Chúng tôi cũng hòa mình vào cuộc sống rất êm đềm của dân làng dù không biết mình sẽ còn ở đây bao lâu. Đàn bà, con gái thì ở nhà, còn đám đàn ông thanh niên chúng tôi thì sáng nào cũng đi tìm việc làm để đem thực phẩm. Cách phân chia công việc có vẻ giống như thời ... Trung Cổ. Thật ra, nhóm phụ nữ cũng không ở không đâu, vì các cô cũng có người tìm được việc làm. Mỗi sáng ra bờ biển giúp bốc dỡ cá tôm cho các ghe đánh cá cập biến. Họ thường được cho cá tôm và nước nắm như là trả công.
Riêng tôi tìm được một việc làm khá ổn định, đó là đi câu mực với một ông chủ. Gia đình ông chủ có cái nhà sàn cách chỗ chúng tôi ở chỉ vài phút đi bộ. Chiều chiều tôi lên cái ghe nhỏ của ông ra biển đánh cá, và chủ yếu là câu mực. Nhớ ngày đầu, tôi được đàn anh cảnh cáo là coi chừng nó kêu mày ra biển và giết mày đó, mày phải chuẩn bị. Tôi hỏi chuẩn bị sao đây. Các đàn anh bày ra rằng, lúc nào cũng ngồi xa ông chủ, và gần nơi có "vũ khí" (cây, thanh gỗ, dao, v.v.) để khi có chuyện là "chiến đấu" và nhảy xuống biển lội.
Tôi làm y chang như lời khuyên, nhưng sau vài đêm chẳng có chuyện gì xảy ra, và ông chủ thì quá tốt với tôi, nên tôi nghĩ những cảnh giác đó là quá đáng. Ông chủ thấy tôi không có quần áo tốt, nên một hôm ông cho tôi cái áo thun rất oách và cái quần short để thay đổi hàng ngày. Những kỉ vật đó tôi vẫn còn giữa mãi đến 20 năm sau, nhưng một lần chuyển nhà, nó bị mấy đứa con cho vào thùng rác. Tiếc ơi là tiếc!
Một hôm, nhân dịp không đi làm biển tôi theo đám đàn ông đi làm thuê cho một ông chủ ở cách đó vài chục cây số. Công việc của chúng tôi nghe nói là chỉ đi chặt lá dừa. Người đến thuê nói sẽ trả giá rất tốt, tính ra mua được cả giạ gạo và cả thùng nước mắm! Thế là 10 người chúng tôi lên xe 3 xe pick-up chở đến một cái vườn um tùm và rất rộng. Chúng tôi hăm hở cầm dao mác đi chặt lá dừa. Vài phút đầu thì chẳng có gì xảy ra, nhưng đi sâu vào trong thì ôi thôi đụng phải ổ kiến vàng, bị cắn quá chừng. Không thể bỏ việc, vì đã nhận hợp đồng rồi, nên anh em an ủi nhau cố gắng làm cho xong việc. Đến gần chiều thì chúng tôi cũng phát quang xong cho ông bà chủ. Tiền bạc thì rất sòng phẳng, ông bà chủ cám ơn rối rít, và mời ở lại ăn cơm chiều, làm vài li "Mai Kỏn", loại rượi đế của Thái Lan, và sau này tôi mới viết Mai Kỏn có nghĩa là Mê Kong. Lần đầu tiên lên bờ Thái Lan và được uống rượu đế. Nhưng rượu nặng quá, nên chỉ làm được một chút là ... chạy làng. Chiều về thấy da ai nấy cũng bị sưng vù lên. Mọi người nói mẹ kiếp, mắc mưu thằng Thái trung gian, lần sau sẽ không chơi với bọn này nữa.
Những ngày ở Budi, chúng tôi sống cuộc sống có thể nói là nhàn hạ, và với những kỉ niệm như thế. Có những người đi làm phụ hồ ở xa, và cũng được trả lương đàng hoàng. Phải có dịp đi ra ngoài làng mới thấy lúc đó Thái Lan đã giàu có và phát triển hơn Việt Nam rất xa. Làng xa tít mà cũng có đường trán nhựa chạy bon bon. Nhà nào cũng có xe hơi, còn xe Honda chỉ để đi chơi là chính. Mấy bà thì nhận xét rằng ngay cả chai nước mắm hay cái bao ni lông của họ cũng đẹp và sạch sẽ hơn Việt Nam mình. Xin nói thêm rằng thời đó Việt Nam thậm chí còn chưa làm nổi bao ni lông! Nhìn cảnh đó, anh em chúng tôi ai cũng lắc đầu cho Việt Nam, không biết bao giờ mới đuổi kịp Thái Lan.
Nhưng quan trọng hơn hết là cuộc sống tự do. Ít thấy bóng dáng cảnh sát. Chẳng ai làm phiền hà mình. Trưa nào, chúng tôi cũng tụ tập bên nhau nói chuyện, và bàn về tương lai. Chú Ba Trung Tá và anh Ba Hà Nội hai người có nhiều chuyện để kể, kèm theo những bình luận sâu sắc. Chú Ba TT kể chuyện chú đi tù ra sao, chuyện các quản giáo miền Bắc dốt như thế nào, chuyện cười ra nước mắt trong trại cải tạo. Chú còn kể chuyện vào tù cải tạo gặp toàn những "who is who" của miền Nam trước đó như Nhà văn Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, v.v. Chú kể rằng trong chuyến xe lửa chở tù miền Nam ra Bắc, khi xe ra đến Bắc (không nhớ vùng nào) cả đoàn tàu bị dân ném đá. Mấy người lính canh tù nói "Các anh thấy chưa, tội ác của các anh là trời không tha, đất không dung, dân chúng ghét. Nếu không có chúng tôi bảo vệ thì các anh đã chết rồi." Dĩ nhiên, đoàn tù thì thừa hiểu màn ném đá là một màn kịch có bài bản. Đến khi xuống xe để vào trại thì người ta phát hiện có người tù chết trong xe vì ngộp thở. Những chuyện chú kể là cả một trời kinh nghiệm và chứng từ của một thời đau khổ. Chú kể chuyện như chơi, không thấy bất cứ một thù hằn nào trong lời nói, chỉ toàn là tếu tếu.
Còn anh Ba Hà Nội thì ngược lại, anh kể chuyện ngoài Bắc. Anh Ba HN không biết tiếng Anh, nhưng biết chút tiếng Pháp. Anh là người rất vui tính, ăn nói lưu loát (dân kí giả mà), biết rất nhiều câu chuyện về các vị cầm quyền chóp bu ngoài Bắc. Ngay từ thời đó, anh đã cho biết ông Hồ có vợ mà chẳng ai tin anh! Anh cũng có đề cập đến cái chết của Nông Thị Xuân, nhưng lúc đó ai cũng nghĩ anh ta xạo, chẳng ai tin. Nhưng sau này tôi đọc qua hồi kí của Bùi Tín, Vũ Thư Hiên mới thấy những câu chuyện của anh kể rất ăn khớp. Hóa ra, những gì ông Bùi Tín và Vũ Thư Hiên viết không phải là mới đối với giới trí thức Hà Nội. Thỉnh thoảng chú Ba TT quay sang anh Ba HN nói như nửa đùa nửa thật "Thằng này nó là Việt cộng Bắc Việt, nhưng nó nói tao nghe rất được."
Một hôm, nhân dịp làm thủ tục tị nạn, nhân viên của Liên Hiệp Quốc về phỏng vấn và mỗi chúng tôi phải điền form màu xanh. Form đòi những thông tin cá nhân, thông tin về cha mẹ, và lí do rời Việt Nam. Đa số những người tị nạn không biết tiếng Anh, chỉ có chú Ba TT là người duy nhất thành thạo tiếng Anh và có thể giải thích những ô chữ trong cái form phức tạp đó. Thế là chú nghiễm nhiên trở thành trưởng nhóm, và ngồi bên cạnh các nhân viên LHQ để thông dịch. Chú mặc quần short, lúc thì ở trần, lúc thì chỉ khoác cái áo thun đã phai màu, tay cầm thuốc lá phì phèo, nghe người khai thông tin và dịch lại cho nhân viên LHQ. Chú ít khi nào nhìn xem họ viết có đúng không, mà chỉ nói như ... sếp ra lệnh.
Lúc đó, nhìn phong cách của chú Ba Trung Tá tôi phục chú sát đất. Chú nói tiếng Anh rất tự nhiên, và với thái độ tự tin đến ... trịch thượng. Tôi nhớ hoài một hôm chú làm phiên dịch cho một quan chức Thái Lan, và ông quan chức này khen chú nói tiếng Anh giỏi; chú quay sang chúng tôi rồi tươi cười nói lại: "Tao nói tiếng Anh giọng nước mắm, vậy mà thằng mọi này nó nói tao nói tiếng Anh giỏi!"
Nhớ hoài chữ "mọi" mà ngày xưa thầy cô bên VN đã gieo vào tôi. Thời đó, VN xem các nước bên cạnh như Thái Lan, Mã Lai, Lào, Cambodge, v.v. là ... "mọi". Ý xem thường người ta là kém văn minh. Nay lại nghe chú Ba TT dùng chữ đó. Tôi nghĩ thầm trong bụng, nói người ta là "mọi" nhưng sao người ta sang hơn mình quá, giàu hơn mình cả mấy chục năm, và lịch sự với mình nữa. Ấy vậy mà người Việt lại tự cao tự đại. Là người tạm dung trên đất nước người ta, nhưng chú Ba xem quan chức địa phương ... chẳng ra gì, dù không thể hiện ra thái độ, chỉ thể hiện qua cách nói tiếng Anh.
Một hôm khác, chú Ba nhận được thư của đứa con trai ở bên Mĩ gửi, kèm theo ít tiền. Chú mở thư ra và thấy có hình anh chàng kia đang cầm điện thoại nghe. Chúng tôi thì thấy bức hình sang trọng quá, và cái điện thoại rất oách. Nhưng chú Ba đọc thư xong, cầm tấm hình lên và nói "Thằng này nó khoe! Ở bên đó cầu tiêu còn có điện thoại, có gì mà khoe. Chắc nó tưởng tao ngu lắm." Tụi tôi há hốc ra nghe và ngạc nhiên. Trời ơi! điện thoại mà có trong cầu tiêu, chú Ba này nói quá! Nhưng nhìn qua phong cách, chú đúng là có phong cách của người lãnh đạo, tự tin, nhưng lại bình dị đến lạ thường.
Hôm nay, viết những dòng này, tôi đoán chú Ba Trung Tá cũng đã trên 80 tuổi (nếu chú còn sống). Sau này chú đi định cư ở Mĩ, và tôi mất liên lạc với chú. Nhưng hình ảnh của chú trong tôi là cái type của một sĩ quan VNCH có học thức, vui tính, và rất nam kì tính. Còn anh Ba Hà Nội của tôi cũng có thể đã ra người thiên cổ. Trong nhóm 23 người trên chiếc ghe năm 1981, nay đã có vài người qua đời, số còn lại bên Mĩ và Úc đều có cuộc sống ổn định. Những người bạn trong 2 chiếc tàu kia thì gần như mất liên lạc, dù biết đa số họ định cư bên Mĩ.
Trại tị nạn Songkhla
Ở Budi độ hai tuần thì chúng tôi được lệnh chuyển trại. Budi chỉ là nới tạm trú để làm thủ tục, phải đến một trại có đủ ban bệ để các nhà chức trách đánh giá và xác định tư cách tị nạn. Thế là những ngày êm đềm nhất trong đời tị nạn rồi cũng qua đi, và đến ngày chia tay. Cuộc chia tay nào cũng buồn, và chia tay Budi cũng không phải là ngoại lệ. Sau hai tuần ở cái làng chài êm đềm này, đã quen biết khá nhiều người tử tế, ai cũng cảm thấy lòng mình chùng xuống khi bước lên xe bus để rời làng. Ngày ra đi có vài người trong làng đến vẩy tay tiễn đưa. Nhìn những cánh tay vẩy vẩy và những nụ cười hiền lành mà mình cảm động vô biên. Hoá ra, ở đây tình người có khi còn nặng hơn cả bên quê hương mình.
Tỉnh Songkhla (tên một hoàng tử Thái Lan). Đó là một nơi đẹp và có Đại học Songkhla cũng có tiếng ở Thái Lan. Nhiều sinh viên VN sau này học ở Songkhla, nhưng chắc ít ai biết nơi đây mang nhiều dấu tích của thuyền nhân VN.
Tất cả đều lên hai chiếc xe bus lớn rời Budi. Phải mất một ngày đường, mới đến trại mới rất nổi tiếng trong người tị nạn. Trại tên là Songkhla. Songkhla là một tỉnh thuộc miền Nam Thái Lan (Songkhla là tên của một hoàng tử Thái Lan). Trại tị nạn Songkhla là một trại khá lớn, lúc tôi đến đó thì đã có hơn 5,000 người trong trại. Nghe nói trong lúc cao điểm trại này có đến 10,000 người tị nạn. Trại nằm dọc theo bờ biển, rất đẹp mắt. Phía trước là biển, phía sau là một dãy núi, và dĩ nhiên là xung quanh được rào bằng kẻm gai. Nếu tôi nhớ không lầm, chiều ngang của trại chỉ khoảng 50- 80 mét, chiều dài thì đi bộ chỉ 15 phút là hết. Người tị nạn không được ra ngoài trại nếu không được phép.
Người tị nạn ở trong những cái chòi tạm thời (do những người trước đây dựng lên) ngay bên bờ biển. Tôi cũng có một cái chòi, và phải "share" với những người độc thân khác. Từ Budi lên đây thì nhóm đã bắt đầu chia ra thành từng nhóm nhỏ và hoà mình vào trại lớn hơn. Có người tìm gặp thân nhân đã qua trước nên họ về ở chung, còn những người "con bà phước" thì tụ tập với nhau thành từng nhóm nhỏ và xoay xở qua ngày.
Cảnh sinh hoạt trong trại tị nạn. Hình nhày chụp lại nhóm người tị nạn xếp hàng chờ lấy nước ngọt trong trại. Thời đó, mỗi người được 20 lít nước ngọt mỗi ngày. Đa số những người trong hình giờ đây cũng vào tuổi 60 cả rồi.
Ngày đầu tiên nhập trại Songkhla, tôi tưởng mình lạc vào một thành phố ở Việt Nam. Người ở đâu mà đông đúc ghê, mật độ dân số ở đây chắc phải cao nhất nhì thế giới! Nhìn qua cách ăn mặc, thấy người nghèo nhiều hơn người giàu, và điều này cũng dễ hiểu. Đại đa số người nhập trại là đã bị cướp bóc trên biển, nên họ chẳng còn gì. Tuy nhiên, cũng có nhiều chuyến may mắn, nên bà con còn giữ vàng và tiền đến đây. Lại có một nhóm khác ở đây khá lâu (trên 6 tháng) và được thân nhân nước ngoài tài trợ, nên họ cũng có cuộc sống khá đầy đủ. Có người còn tiền hay mới có tiền mở hàng quán ngay trong trại. Đủ loại quán, nhưng quán ăn và quán nhạc là phổ biến nhất. Nhìn từ xa có thể thấy một khu rất trù phú và tấp nập, và quả thật là như thế.
Hai bên đường chật hẹp là hàng quán bán cơm, phở, hủ tiếu, cà phê, mọc lên đầy rẫy. Những hàng quán này làm ăn rất khá, vì ở trong trại đâu có việc gì làm, nên người ta thả hồn theo khói thuốc và cà phê. Có nhiều khách hàng là những chàng trai mặt mũi rất "ngầu", tóc dài chấm vai (nom y như những người đóng vai du côn trong các phim xã hội đen) phì phèo những điếu thuốc lá "Samit" hay "555" bên li cà phê đen. Phía trong quán thì ồn ào đài loa với những bản nhạc vàng ảo não, nhạc rock xập xình, nhạc nhà binh hùng tráng, nhạc chống cộng, v.v. được phát thanh với một âm lượng tối đa, làm đinh tai nhức óc những ai không may mắn phải đứng trước những cặp loa này. Trên đường lộ dập dìu tài tử giai nhân son phấn lòe loẹt, vàng đeo lóng lánh, trong những bộ quần áo thời trang Âu Mĩ đắc tiền đi "dạo phố" như trẩy hội! Thành ra, nói là trại tị nạn, nhưng lại là một xã hội Việt Nam thu nhỏ.
Trại tị nạn Songkhla vào thập niên 1980s. Nghe nói trước khi thành trại tị nạn, nơi này là trại lính. Đến khi cao trào người vượt biển tăng quá nhanh, nhà cầm quyền Thái Lan phải biến trại lính thành trại tị nạn dưới sự quản lí của Thái Lan và Cao uỷ tị nạn thuộc Liên hiệp quốc.
Địa điểm trại tị nạn Songkhla ngày nay. Hình chụp trên youtube của một đoàn thuyền nhân quay lại thăm Songkhla vào năm 2017. Bây giờ là một con đường nhựa có vẻ tốt, không còn dấu vết trại tị nạn nữa. Ngày xưa (~40 năm trước) trên con đường này là hàng vạn dân tị nạn trong hàng ngàn cái lều bên cạnh bờ biển.
Vốn được chuyển lên đây từ một vùng quê, tôi cảm thấy mình vừa quê mùa vừa bơ vơ lạc lõng như một thành phần "outcast" trong xã hội tị nạn này. Quả thế, vì từ lúc lên bờ cho đến khi đi chuyển trại, tài sản duy nhất mà tôi có là hai cái quần short và hai cái áo ngắn tay do một ông chủ ở Budi tặng cho. Nhiều khi đi qua các hàng quán, thỉnh thoảng nghe một đoạn nhạc của Nguyệt Ánh và Việt Dũng mà buồn mà buồn vời vợi ... Lúc đó, ai cũng nghĩ một lần đi là vĩnh biệt, không bao giờ về Việt Nam nữa. Do đó, những sáng tác nhạc thời đó rất ray rức.
Nắng nơi đây vẫn là nắng ấm Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
hay
Đến bao giờ trở về Việt Nam Thăm đồng lúa vàng, thăm con đò ven sông
Những lời ca đậm chất thơ và miên viễn đó theo tôi tận đến ngày hôm nay.
Một bản tin trên báo NYT ngày 26/1/1982 về nạn hải tặc ở Thái Lan. Bản tin này thuật lại vài câu chuyện vô cùng đau nhói về những cái chết của thuyền nhân. Có nhiều nguồn tin cho rằng hải quân Thái Lan đã làm ngơ để cho bọn hải tặc cướp hiếp giết người Việt, vì người Thái chẳng ưa gì người Việt.
Nhưng những cảnh phồn vinh náo nhiệt kia chẳng khác gì những lớp phấn son được sơn trét lên mặt những cô gái một cách vội vã để cố tình xóa lấp đi những nỗi ám ảnh của một quá khứ quá khủng khiếp. Thực vậy, lên đến Songkhla và có dịp nghe những câu chuyện thương tâm khác của đồng hương, tôi mới thấy chuyến đi của mình còn may mắn chán. Tôi nghe nhiều câu chuyện về cướp biển vô cùng khủng khiếp, mà chữ nghĩa có khi không tả hết được những tang thương người Việt Nam mình đã gánh chịu. Có nhiều trường hợp cả tàu bị thảm sát trên biển cả. Có trường hợp bọn cướp biển làm nhục phụ nữ ngay trước mặt người thân. Có người bị bệnh tâm thần khi lên đến trại này. Tôi đã từng thấy những người rách rưới đi lang thang trại, miệng lằm bằm nói gì chẳng ai hiểu, rồi thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc thảm thiết. Nhìn những người đó tôi dù chưa biết sự việc đằng sau nhưng đã thấy đau quặn lòng. Thành ra, không phải ngẫu nhiên mà Du Tử Lê muốn mang xác mình ra biển khi qua đời:
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển Nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi Bên kia biển là quê hương tôi đó Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì ... Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi Những năm trước bao người ngon miệng cá Thì sá gì thêm một xác cong queo. ... Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển Và trên đường hãy nhớ hát quốc ca Ôi lâu quá không còn ai hát nữa (bài hát giờ cũng như một hồn ma) Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết Đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
Một VNCH thu nhỏ và oán thù
Trại Songkhla là một nước VNCH thu nhỏ. Trại có ban quản lí, do người Thái đảm trách, với sự hỗ trợ và cố vấn của người Việt tị nạn. Những người cố vấn thường là sĩ quan hay quan chức cấp cao trong chế độ VNCH trước đây. Nếu ngày xưa VNCH có tổng thống thì trại Songkhla có trưởng trại; ngày xưa có Bộ Nội vụ thì ngày nay có "Ban Trật tự"; Bộ Thông tin Văn hóa nay được được "đổi tên" thành "Ban Thông tin Văn hóa"; các anh quân nhân, sĩ quan VNCH ngày xưa nay trở thành "cựu quân nhân", có người còn tự cho mình lên chức (xưa là trung úy nay thành đại úy!) Ngày xưa VNCH có hối lộ và tham nhũng, thì ngày nay ngay trong trại tị nạn, cũng có tham ô và hối lộ. Có khi cường độ tham nhũng còn trắng trợn hơn.
Bất cứ ai, kể cả tôi (dĩ nhiên), đều có thể thấy những hành vi tham nhũng trong trại tị nạn. Theo qui chế của Cao Ủy Tị Nạn, chúng tôi, những người mới nhập trại được cấp cho một cái áo thun, một cái quần, và vài lít gạo để sống. Nhưng nhóm Budi của chúng tôi chẳng được một món nào. Biết được thằng em họ nhập trại trước tôi đang làm trong ban phân phát hàng hóa, tôi hỏi nó tại sao tôi không được phát gì cả. Thằng em họ của tôi ôm bụng cười ha hả như chưa bao giờ vui hơn, và nói đại ý là "Ở đây, bọn nó bán hết rồi, anh làm gì có được mấy thứ đó! Anh có tiền thì mới mua được." Tôi càng ngao ngán hơn và nghĩ chả lẽ mình phải chết đói ở đây. Nhưng thằng em tôi chạy đi đâu một lúc và mang về ba lít gạo cho anh em tôi đủ sống ít ngày.
Ban Bưu Tín cũng là một trung tâm khét tiếng ăn chận, ăn cắp hay nói đúng hơn là ăn cướp, tiền bạc của người tị nạn. Có nhiều thư từ và tiền bạc từ nước ngoài chẳng bao giờ tới tay thân nhân trong trại. Tôi cũng là một nạn nhân của ban Bưu Tín này. Và, nếu có tới người thân thì cũng bị cắt xén, ăn chận. Trong khi các Ban có cơ hội ăn hối lộ, ăn chận đồng hương thì cũng có ban chuyên hành hạ đồng hương.
Ban Trật Tự ở trại đáng lí ra gìn giữ trật tự thì họ lại kiêm luôn việc lạm dụng quyền và có khi khủng bố đồng hương. Họ đánh người một cách chuyên nghiệp, không nương tay, và vô cùng tàn nhẫn. Không biết bao nhiêu người tị nạn vô tội đã là nạn nhân của nhóm người ác độc này. Tuy cùng cảnh ngộ tị nạn, nhưng những người có quyền chức trong trại tị nạn không hẳn là thân thiện với những người kém may mắn hơn. Bị người ngoại bang sát hại đã là một sự nhục nhã, nhưng bị chính người tị nạn hành hạ lại còn đau lòng hơn. Songkhla là nơi mà tôi đã chứng kiến những hành động xấu xa và dã man của những người Việt đối với người Việt. Tôi nhủ thầm một ngày nào đó, tôi sẽ viết một cuốn sách và sẽ lấy tên là "Người Việt Nam Xấu Xa" cho cân xứng với cuốn "Người Việt Cao Quí".
Ngày đầu vào trại, ngoài nhóm của chúng tôi đến từ Budi, còn có nhiều nhóm tị nạn từ các nơi xa xôi khác được chuyển về bằng xe bus. Từ ngoài cổng, chúng tôi đi vào vào trại chầm chậm theo hàng hai. Hai bên đường có đầy đồng hương đứng xem và ồn ào như một cái chợ. Người thì dán mắt tìm xem có thân nhân, bà con của mình mới sang không; người thì dò xét, nhận diện xem có kẻ thù năm xửa năm xưa nào đến trại hay không. Người có thân nhân thì nước mắt dàn dụa tay bắt mặt mừng. Người tìm được kẻ thù thì trở thành một kẻ hung bạo, tàn ác. Hôm tôi nhập trại, có một anh thanh niên nọ bị tố cáo là "cộng sản", anh ta bị lôi kéo ra khỏi hàng, và bị đánh ngay trên đường vào trại, trước sự mục kích của người đứng hai bên đường. Thấy không ai can ngăn và vì không chịu được cảnh tượng như thế, tôi bước ra hàng định cản, nhưng một trong ba người đang hành hung dí ngón tay vào trán tôi gằn từng tiếng (mà tôi nhớ y như ngày hôm qua): "Đ M, muốn gì? Mày cũng là cộng sản hả?". Tôi cũng sẵn sàng "chơi", nhưng anh tôi lôi ra ngoài. Nếu không thì chắc chắc tôi cũng bị đánh tơi bời ngày hôm đó. Anh thanh niên đó bị đánh đến nổi không còn đi được, chở vào nhà thương điều trị, và nghe nói sau này anh bị tật. Đó là lần đầu tiên tôi mục kích cảnh người đánh người tàn bạo, không thương tiếc như thế.
Sau cú sốc đó, tôi lại bị một cú sốc khác lớn hơn. Sau khi nhập trại, chúng tôi bị dẫn độ vào một hội trường có nhân viên của Ban Trật Tự người Việt canh giữ chung quanh. Họ đóng cửa chính lại, nhưng phía ngoài cửa sổ thì có đầy người đứng xem. Mục đích của buổi họp này là nhằm phổ biến về nội qui sinh hoạt trong trại, nhưng thực tế thì lại là một cuộc thăm dò tìm kẻ thù, một trò khủng bố tinh thần. Người trên bục giảng là một ông chức sắc trong ban quản trị của trại và cũng là cựu quân nhân; bằng một giọng nói Bắc kì nghiêm trọng và vẻ mặt đằng đằng sát khí, ông ta yêu cầu chúng tôi phải khai báo thành khẩn là đã làm việc gì với chế độ cộng sản. Bắt chước một kĩ thuật đe dọa của công an, ông ta nói thêm rằng nếu không khai thì tình báo của ông ta cũng biết thôi, nhưng khai thì sẽ được khoan hồng. Tôi rất ngạc nhiên về thủ tục này, vì nghĩ là tất cả lời khai của mình đều đã được nhân viên Cao Ủy Tị Nạn LHQ ghi chép ở Budi; thế thì cuộc khai báo này là khai với ai? Tuy nhiên, tôi nghĩ vì từng làm việc dưới chế độ mới một thời gian, nên cũng định khai báo cho rõ ràng ...
Nhưng hôm đó, may mắn cho tôi: một người em họ nhập trại trước tôi vài tháng đang đứng bên cạnh cửa sổ và đưa tay làm dấu hiệu cho tôi biết là đừng khai. Anh Ba Hà Nội ngồi cạnh tôi và có lẽ có kinh nghiệm hơn tôi về những trò này, cũng khuyên tôi là cứ lờ đi cái "lí lịch dính líu cộng sản" đó. Tôi và anh Ba Hà Nội thoát nạn. Nhưng không may mắn cho những người khác, trong đó có hai anh bạn của tôi, T và S trong tàu "Thủy Sản" từ Budi lên, những người đã thành thật khai báo là có làm việc sau 1975 như là tài công và thủy thủ. Hai anh này liền được "mời" lên Ban Trật Tự "làm việc". Cả hai bị đánh nhừ tử. Mặt hai anh này bị sưng húp lên, mắt thì bầm, nhưng ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tối hôm đó, tôi nằm ngủ bên cạnh hai anh phía ngoài căn chòi bên cái giếng nước, nghe anh T thề rằng sẽ có ngày trả thù bọn người mà anh ta cho là "lũ chó đẻ".
Sự đời có vay thì có trả. T và S sau này được định cư ở Mĩ. Hai người vẫn giữ liên lạc với tôi một thời gian. Một hôm tôi nhận được thư của họ hân hoan báo cho tôi biết là họ đã trả thù những kẻ đánh họ trong trại tị nạn ngay tại phi trường. Số là họ nắm được thông tin về ngày giờ và nơi đáp máy bay mà những người đánh họ trong trại tị nạn, và thế là họ bao vây và trả thù. Họ không nói trả thù ra sao, nhưng chắc những kẻ hành hạ họ cũng bị một trận nhừ tử.
Tôi tin rằng có nhân quả. Những kẻ ám hại người khác thì không sớm hay muộn cũng bị trả giá. Trả giá không bằng cách này thì cũng bằng cách khác, có khi là cả sinh mạng. Tôi đã chứng kiến những người hành xử xấu với đồng hương bên trại tị nạn, sau khi định cư đều trở thành 'thân tàn ma dại' cả. Có một anh chàng Thái làm cảnh sát hay đánh người tị nạn, chẳng hiểu sao sang được Úc, và anh ta cũng bị nạn nhân của anh ta trả thù ghê gớm. Thời đó, người ta mua súng rất dễ, nên những trận bắn giết trong cộng đồng xảy ra. Những ngày nóng bỏng đó, những ai mang cái nhãn 'cộng sản' thì khó có thể tồn tại ở Úc. Nhân quả là có thật.
"Tại sao anh muốn đi Úc?"
Ở trong một môi trường khủng khiếp như thế, ai cũng mong mình được đi định cư ở một nước thứ ba càng sớm càng tốt. Cứ mỗi lần nghe Khánh Ly hát "Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về …" (bài Biển nhớ, một ca khúc rất nổi tiếng của ông Trịnh Công Sơn thường được dùng để tiễn người may mắn được nằm trong danh sách lên đường) là mỗi lần tôi buồn cho thân phận mình, chẳng biết bao giờ mới được đi và đi đâu.
Nhưng rồi ngày may mắn cũng tới. Theo định kì, nhân viên từ các tòa đại sứ ở Bangkok (mà người trong trại quen gọi là "phái đoàn") xuống tận trại để chọn người định cư ở nước họ. Trong số các nước quan tâm tới người tị nạn, Mĩ, Úc, Gia Nã Đại, và Pháp thường hay phái nhân viên xuống trại phỏng vấn và làm thủ tục định cư. Tôi được tiếp xúc với phái đoàn Úc đầu tiên.
Sau khoảng ba tháng ở trại Songkhla, tôi nghe tin qua loa phóng thanh, có phái đoàn tòa đại sứ Úc xuống làm việc ở trại. Lúc bấy giờ, Úc là một nước khó nhất đối với người tỵ nạn; ngoài các tiêu chuẩn về nghề nghiệp, học vấn, v.v. họ yêu cầu người xin định cư phải viết một lá đơn bằng tiếng Anh, nói rõ tại sao muốn đi Úc. Lúc đó tôi không có lựa chọn hay ý niệm gì cụ thể là mình sẽ đi nước nào định cư. Nhưng vì Úc là phái đoàn đầu tiên xuống đây [sau ngày tôi nhập trại], và tôi đã quá chán ngán với cảnh đời trong trại, nên tôi quyết định xin gặp phái đoàn để hi vọng được đi Úc [hay bất cứ nước nào, miễn là rời khỏi cái trại khốn khổ này].
Nhưng cái khó là phải thảo một lá đơn. Lúc đó, trình độ tiếng Anh của tôi lúc đó quá tồi, do tôi học Pháp văn và khá tốt với tiếng Pháp, nhưng tiếng Anh thì ôi thôi ... tồi lắm. Lúc bấy giờ, chú Ba Trung Tá đã được chuyển sang trại khác cùng người yêu của chú chờ ngày đi Mĩ. Tôi đành nhờ hết người này đến người khác viết đơn dùm tôi, nhưng chẳng ai thèm giúp tôi. Người thì nói bận, người thì đòi tiền, có người còn mắng tôi như tát nước vào mặt: "Sao không chịu học tiếng Anh hồi ở bển, học lớp mấy rồi mà kém quá vậy?" Lúc đó, tôi thấy sự độc lập thật là quí báu, và tôi tự nhủ thầm sẽ không nhờ vả người Việt trong tương lai và không kết thân với người Việt có học thức. Tôi vẫn giữ cái tâm nguyện này.
Thế là tôi lầm lũi lên thư viện trại, ngồi cả ngày lật quyển từ điển cũ kĩ chuyển từ tiếng Việt sang tiếng Anh lá đơn của tôi. Thỉnh thoảng có chêm vào chữ Pháp nữa, vì bí quá không biết tiếng Anh là gì. Tôi dịch từng chữ một, chia động từ loạn cả. Cuối cùng tôi cũng có một lá đơn.
Vài hôm sau, loa phóng thanh kêu tên tôi lên gặp phái đoàn Úc để phỏng vấn. Trong thời gian ngắn ở trại, tôi đã từng nghe qua nhiều câu chuyện về những người đi trước bị các phái đoàn từ chối cho đi định cư chỉ vì trả lời phỏng vấn không thông. Nhiều người bị phái đoàn Mĩ từ chối vì những lí chẳng đâu vào đâu. Không có logic hay tiêu chuẩn gì cụ thể cả. Nổi tiếng nhất là anh chàng nhân viên Toà đại sứ Mĩ mà dân tị nạn gọi là "Gà Đá" (vì anh ta xâm trên tay con gà đá). Anh này từng phục vụ ở Việt Nam trước 1975, nghe nói biết tiếng Việt kha khá, nhưng tánh tình thì thất thường. Tiêu biểu là một anh kia lên phỏng vấn, tay Gà Đá đòi anh tị nạn kéo tay với anh ta; kéo thắng, Gà Đá sẽ nhận. Kết cục, anh tị nạn hạ Gà Đá, và thế là Gà Đá nhận anh tị nạn đi Mĩ. Nhiều chuyện như vậy trong trại tị nạn lắm, mà nếu viết lại thì cả một pho truyện tiếu lâm.
Vì thế, tôi hồi hộp bước vào phòng phỏng vấn trong ánh mắt theo dõi của nhiều đồng hương khác. Anh chàng nhân viên sứ quán Úc cao, to, râu ria xồm xoàm, nhìn lá đơn của tôi và hỏi qua anh thông dịch viên:
Ai viết lá đơn này?
Tôi trả lời, cũng qua anh thông dịch viên: "Tôi viết." Anh ta mỉm cười:
Anh có học tiếng Anh bao giờ chưa?
"Dạ chưa," tôi rụt rè trả lời.
Anh muốn đi Úc làm gì?
Dạ, đi học hay làm ruộng.
Tiếng Anh như vầy sao học được? Anh cũng không đủ tiền làm ruộng đâu!
Tôi ngỡ ngàng trước câu bình phẩm của anh ta (làm ruộng mà cũng cần tiền ư!). Trời ơi! Ở quê tôi, làm ruộng là nghề chẳng cần đồng nào cả; chỉ cần sức lực thôi. Đi học mà cũng không cơ hội à? Tôi thất vọng, và nghĩ rằng cái mộng đi Úc tiêu tan rồi. Nhưng anh ta hỏi tiếp:
Ngoài những lí do anh nêu trong đơn, anh còn có lí do nào khác để đi Úc không?
Tôi nhớ hồi còn đi học có thấy con Kangaroo và ước mơ có ngày được nhìn nó tận mắt. Tôi bèn thực tình nói:
Tại tôi muốn ... nhìn thấy con Kangaroo!
Anh ta trợn mắt nhìn tôi một lúc, rồi đột nhiên bật cười ha hả, chìa một tay ra bắt tay tôi, tay kia anh đóng cái "rầm" cái mộc xuống tờ giấy và nói "OK, tôi nhận anh. Qua bên kia làm thủ tục mau đi!"
Trời ạ! Tôi sững sờ và chưa kịp nói lời cám ơn, thì anh ta đã khoát tay cho tôi đi qua phía bàn bên kia làm thủ tục khác. Đa tạ anh Úc! Đa tạ! Tôi không thể nào quên anh Úc này mà tôi coi như một ân nhân.
Câu chuyện tôi đi Úc bắt đầu bằng mẫu đối thoại đó. Tôi vẫn nhớ y như ngày hôm qua. Nhớ từng câu nói được thông dịch; nhớ ánh mắt anh ta; nhớ cái khoát tay; nhớ cái cảm giác lâng lâng, khó tả. Câu chuyện còn có cái kết khác, vì sau này tôi gặp anh nhân viên sứ quán này trong Đại học Sydney (lúc đó anh theo học MBA, và tôi làm tutor). Nhưng chuyện này hay lắm, sẽ kể sau.
Có thể nói Songkhla là một trong những nơi ghi lại nhiều dấu tích đau buồn nhất của thuyền nhân Việt Nam. Đó là nơi tạm dung cho hàng trăm ngàn người tị nạn, và trong thời gian tạm dung, đã có không biết bao nhiêu sự kiện xảy ra. Những sự kiện đau buồn lẫn hạnh phúc đều có, buồn nhiều hơn. Một trong những sự kiện bi thảm nhất và buồn nhất là xác của 11 phụ nữ tuổi 20s bị trói cổ vào nhau, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Những cô gái đó đã bị làm nhục trên biển và vứt xác xuống biển. Họ là đồng hương mình đó. Nỗi đâu dân tộc. Chúng ta không bao giờ quên và không bao giờ tha thứ những kẻ đã gây nên đau khổ cho họ.
Thật ra, sự kiện bi thảm đó chỉ là một trong hàng ngàn câu chuyện về thảm cảnh thuyền nhân ở Biển Đông vào thập niên 1970s và 1980s. Hàng trăm nấm mồ tập thể được người dân địa phương tốt bụng chôn cất; mỗi mồ có mấy chục người được chôn chung. Đảo Koh Kra khét tiếng là địa ngục trần gian, là nơi chôn vùi hơn 3000 đồng hương tị nạn. Thế giới đã nghe nhiều về “holocaust” bên Đức, "killing field" bên Campuchia nhưng thế giới chưa nghe hay biết nhiều về những cuộc thảm sát trên biển Đông. Do đó, sau này khi qua Sydney, tôi có tham dự một cuộc viết văn do tạp chí "The Good Weekend" tổ chức, và tôi được giải $500 với bài tôi đặt tựa đề là "Killing Sea" để ghi lại những biến cố biển bi thảm của thuyền nhân Việt Nam.
Panatnikom và những mảnh đời tị nạn
Theo thủ tục chung thì sau khi được một phái đoàn chấp nhận cho đi định cư, người tị nạn được chuyển đến một trại chuyển tiếp (gọi là "transit camp"). Sau khi được phái đoàn Úc nhận khoảng ba tháng, tôi được chuyển đi trại chuyển tiếp Phanat Nikhom ở miền đông Thái Lan. Sau này tôi mới biết Phanat Nikhom là một quận thuộc tỉnh Chonburi, nơi có bãi biển Pattaya rất nổi tiếng. Tiu nhiên, chúng tôi không có cơ may ở Pattaya, mà là một nơi có thể nói là .... 'khỉ ho cò gáy'.
Một hình ảnh ở trại Phanat Nikhom vào thập niên 1980s, không phải hình của nhóm chúng tôi, mà là hình sưu tầm trên trang: http://phanat-nikhom.blogspot.com/ Đằng sau là những căn nhà fibro mới xây cho dân tị nạn, trong nhà chẳng có gì cả, chỉ có cái sàn xi măng thôi. Nhưng khi chúng tôi về đó, chúng tôi biến thành một khu 'kinh tế mới' cho Thái Lan.
Thật ra, lúc tôi vào trại Songkhla thì cũng là lúc trại chuẩn bị đóng cửa. Nói là "chuẩn bị đóng cửa", nhưng cũng phải 5-6 năm sau thì mới thực hiện được ý định đó, một phần là do làn sóng người tị nạn đang lên cao, nên các chính phủ nước phương Tây gây áp lực lên Thái Lan không nên đóng cửa trại. Nhưng Thái Lan có lẽ cũng quá mệt mỏi với người tị nạn, không chỉ từ Việt Nam mà còn từ Lào và Campuchea, nên họ phải làm cái việc mà họ làm, tức đóng cửa trại.
Hôm chuyển trại từ Songkhla đi Phanat Nikhom xảy ra một tai nạn thương tâm. Nếu tôi nhớ không lầm, từ Songkhla đến Phanat Nikhom khoảng một ngày đường (bằng xe bus). Xe tôi đi qua những đồng ruộng, đồi núi chập chùng của Thái Lan mà tôi cho là rất đẹp, không thua gì cảnh đồi núi Việt Nam. Đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp của rừng núi chưa tới đâu, tôi giật mình nhận ra một tai nạn kinh hoàng trong đoàn xe bus. Chiếc xe bus phía sau xe tôi, không rõ do anh tài xế bất cẩn hay ngủ gục, bị lật xuống đường ruộng. Một anh tị nạn trẻ tuổi ngồi ở cửa sổ bị đứt lìa một cánh tay khi chiếc xe chạm vào đường nhựa và kéo lê cả mười thước. Tôi xuống xe nhìn thấy anh ta đang nằm bất tỉnh bên lề đường, cánh tay bị đứt lìa đã biến thành màu nâu đen nằm lăn lóc bên đường lộ. Bị ám ảnh cái cảnh tượng khủng khiếp đó, nên mấy ngày sau, tôi không ăn uống gì cả. Sau này, tôi nghe nói anh bạn trẻ đó được đền 50 ngàn bhat!
Thời đó (1981), Phanat Nikhom là một trại thuộc vùng giữa nơi "đồng không hiu quạnh". Khi tôi đến thì thấy đất cát vàng như sa mạc, rất ít cây lá màu xanh. Nước uống và nước sinh hoạt cũng không có, mà phải khoan giếng hoặc được tiếp tế từ bên ngoài bằng các xe tải. Mỗi ngày, mỗi người tạm trú được cung cấp khoảng 20 lít nước dùng cho vệ sinh cá nhân, giặt giũ và nấu nướng. Có thể nói người tị nạn đến đây đã giúp mở mang một vùng kinh tế cho tỉnh. Tôi hay nói đùa với bạn bè rằng đây là vùng kinh tế mới của thuyền nhân. Sau này (2007) trong một chuyến công tác bên Thái Lan, tôi quay lại đây thì thấy nhà dân mọc lên san sát nhau, cây cối um tùm, xanh tươi. Hoàn toàn không có dấu vết tị nạn gì cả. Phanat Nikhom ngày nay là một đô thị khá sầm uất.
Nhìn toàn cảnh và chung quanh thì rất ít nhà dân. Có lẽ đó cũng là ý đồ của chính quyền Thái Lan không muốn người tị nạn tiếp xúc với cư dân địa phương. Tuy nhiên, người tị nạn vẫn có cách tiếp xúc với người dân địa phương và mua hàng hóa từ họ trước sự làm lơ của cảnh sát Thái Lan. Có tiếp xúc với người địa phương mới thấy họ rất ư là dễ mến. Chỉ nhìn ánh mắt cũng thấy họ thật thà và thương cảm. Họ cho chúng tôi khá nhiều đồ. Họ cũng bán những món hàng như gạo, nước mắm, quần áo cũ, v.v. cho người tị nạn. Tuy nhiên, người tị nạn Việt Nam thì rất coi thường dân địa phương, có lẽ vì tiêm nhiễm cái thói huênh hoang xem người ta là 'mọi' chăng?
Việt - Miên - Lào
Trại Phanat Nikhom lớn hơn trại Songkhla nhiều, có thể chứa tới cả hàng 50 ngàn người. Không giống như Songkhla, trại này có nhà hẳn hoi cho người tạm trú. Hàng ngàn dãy nhà được xây cất bằng các vật liệu như fibro, tole, và xi măng. Mỗi nhà chứa khoảng 10 đến 15 người, và cũng không có ngăn chia phòng ốc gì cả. Lúc chúng tôi mới nhập trại, thì các khu nhà này mới vừa mới xây xong. Do đó, trong nhà hoàn toàn trống tuếch, chúng tôi phải ngủ dưới sàn xi-măng, nhưng như vậy đã là quá sang trọng rồi!
Khác với trại Songhla chỉ có người Việt tị nạn, còn tại đây trại Phanat Nikhom có đủ ba nhóm người tị nạn từ Việt Nam, Lào, và Kampuchea. Trại do đó được chia thành 3 khu riêng biệt dành cho người Việt, Lào và Miên. Khu người Việt lớn nhất, nhưng cũng là khu xảy ra nhiều vấn đề nhất làm đau đầu người Thái. Trong khi hai nhóm tị nạn kia có vẻ an phận, nhóm người Việt có lẽ do tổ chức chặt chẽ hơn, có trình độ văn hóa hơn, (và có lẽ cũng tự hào hơn), nên người Việt không tỏ ra phục tùng ban quản trị Thái. (Trại này hoàn toàn do các viên chức ngành cảnh sát hay quân đội người Thái điều hành, người Việt chỉ làm phụ tá, hay trong một vài trường hợp, làm tay sai cho họ. Người Việt đi đâu cũng có người trở thành tay sai.) Thỉnh thoảng người Việt kéo nhau biểu tình, gây áp lực đến Liên hiệp quốc về những chính sách công cộng ở đây. Có lẽ một phần vì thế mà các viên chức người Thái không ưa người Việt ở đây.
Trại Phanat Nikhom là nơi qui tụ rất nhiều nhân vật nổi tiếng của miền Nam thời trước 1975. Hầu như ai đi tị nạn ở Thái Lan đều qua trại này, nên đều có dịp gặp hay quen biết nhau. Lúc tôi lên thì đã có những nhóm văn nghệ hình thành. Thời đó, ca sĩ Tuấn Anh (người có trang phục khác thường) đã nổi tiếng là một người hát hay. Nhưng những show ca nhạc thường được tổ chức bên kia trại, nên chúng tôi thỉnh thoảng phải hối lộ cho cảnh sát Thái để họ cho qua xem văn nghệ!
Cuộc sống ở đây có phần chật vật hơn so với Songkhla. Về sinh hoạt và ăn uống ở đây (trại Phanat Nikhom) thì theo nguyên tắc là do nhà thầu Thái Lan cung cấp. Như nói trên, nước được vận chuyển từ ngoài vào, và họ chia bình quân từng đầu người. Thức ăn thì do nhà thầu nấu trong trại. Vì nấu cho hàng ngàn, hàng vạn người ăn (theo kiểu XHCN), nên phẩm chất rất tồi tệ. Nếu chỉ nhìn thoáng qua những mảng cơm nhão như cháo hay thiu thì đủ biết tình hình tồi tệ như thế nào.
Có một món mà chúng tôi đặt tên là "gà lựu đạn". Gà lựu đạn là con gà chỉ có xương, vì người ta lấy thịt đem bán chỗ khác. Dân tị nạn chỉ được ăn xương thôi. Thật ra, nhìn vào xuất ăn, người ta có thể được tha thứ nếu nghĩ đó là một một loại thức ăn cho thú vật, chứ không phải cho con người! Nhưng dưới bàn tay chế biến tài tình của các bà nội trợ Việt, những con "gà lưu đạn" đó được biến hóa thành những món ăn rất ngon miệng. Mỗi ngày, chúng tôi (đám thanh niên, đàn ông) đi nhận thức ăn về, các bà các cô trong nhà thì chuẩn bị nấu nướng lại, và cả nhà (vài chục người) cùng ăn chung. Bữa ăn nào cũng ngon và vui. Kể ra thì thời gian ở đây cũng là một quãng thời gian có nhiều kỉ niệm.
Những mảnh đời ...
Đời sống người Việt ở trại Phanat Nikhom có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Gia đình đổ vỡ, chuyện tình éo le, sư sãi hoàn tục, linh mục dỏm, v.v. đều có đủ. Một nhà sư nọ, có lẽ vì chân tu chưa tới, nên đã dan díu với một ni cô khác cũng tu chưa tới. Sự việc hai người bị bắt quả tang trong lúc hành lạc được đưa ra công chúng và ngươi Thái, vốn mộ đạo Phật, được một dịp khinh khi người Việt. Xấu hổ.
Những mối tình phi biên giới và tuổi tác cũng nảy nở ở đây. Bên cạnh nhà tôi, một ông cựu thiếu tá nọ tằng tịu với một cô sinh viên mà tuổi đời chỉ bằng tuổi con ông cũng gây ra nhiều bàn tán xôn xao. (Nếu bây giờ thì chắc chẳng ai quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác, nhưng thời đó thì người mình còn "bảo thủ"). Cái nắng cháy da của vùng sa mạc Thái Lan không làm chùng bước yêu đương, mà còn tăng nhiệt độ cho hai con tim nóng bỏng đang yêu, họ âu yếm quyện vào nhau mỗi trưa hè trên chiếc võng một cách cực kì tự nhiên và hết sức "Tây"! Ban đầu bà con còn thấy lạ lùng và khó hợp nhãn quang, nhưng dần dà rồi cũng quen đi. Không ai biết kết cục của chuyện tình này ra sao.
Ở trong trại có rất nhiều nhóm thiện nguyện từ các nước như Mĩ, Úc, Canada đến giúp người tị nạn. Đa số là các nhóm tôn giáo, nhưng cũng có những nhóm phi chính phủ và không liên quan gì đến tôn giáo. Họ hoạt động rất nhịp nhàng với nhau, mỗi nhóm phụ trách một mảng, và không trùng hợp nhau. Chẳng hạn như nhóm phụ trách tiếng Anh, nhóm lo thư viện, nhóm dạy về đời sống mới bên Tây, thậm chí có cả các nhóm truyền đạo. Những nhóm này thường sử dụng người tị nạn để làm việc, vì họ biết trong cộng đồng người tị nạn có nhiều người giỏi tiếng Anh và có kinh nghiệm điều hành tổ chức. Phải qua đến đây mới thấy người Việt chúng ta nổi trội hẳn so với người Lào và Miên. Nhìn qua các nhân viên làm việc cho các nhóm thiện nguyện, có thể nói gần 100% là người Việt, số người Miên và nhất là Lào thì rất hiếm.
Học tiếng Anh
Riêng tôi, khi lên trại này, tôi cũng thay đổi. Thay đổi lớn nhất là tôi có cơ hội đi học tiếng Anh. Lúc đầu tôi ghi danh vào một lớp dạy tiếng Anh do nhân viên thuộc các tổ chức từ thiện giảng dạy. Không biết vì chính sách hay vì không rành phương pháp sư phạm, họ dạy rất thực tế những câu nói thông thường, không cần để ý tới văn phạm, cú pháp, lúc nào cũng "How are you", "I am fine, thank you", "My name is ...", v.v. Chỉ chừng một tuần theo học, tôi đã chán ngấy và bỏ học. Tôi không muốn học kiểu đó, mà phải học từ căn bản. Nhưng sau này tôi hiểu tại sao họ dạy như thế, vì mục tiêu là làm sao học viên có được những câu chữ thông thường để đi xin việc và giao tiếp, chứ mục tiêu không phải là khoa bảng.
Sau vài tuần nhập trại, tôi xin được một việc làm thủ thư trong thư viện của một tổ chức tôn giáo Tin Lành "Assembly of God" ngay trong trại. Thư viện này do một anh tị nạn người Miên làm sếp. Anh này rất giỏi tiếng Pháp và tiếng Anh, và nhìn qua phong cách thì chắc ngày xưa cũng là quan chức trong chính quyền hay hệ thống giáo dục bên đó. Sáng nào anh ta cũng vào thư viện, chào hỏi mọi người một cách thân mật, nhưng phong thái vẫn toát ra là một 'leader' đúng nghĩa, vừa có học thức, vừa có tư cách lãnh đạo.
Công việc thủ thư của tôi là một cơ hội trời cho để học và đọc tiếng Anh. Mỗi ngày, tôi có nhiệm vụ việc sắp xếp sách báo cho có thứ tự. Mà, thư viện thì nhỏ, chỉ cao lắm là 1000 cuốn sách và tạp chí, chủ yếu là từ nước ngoài. Có khá nhiều sách báo tiếng Việt là từ cộng đồng người Việt ở Mĩ gửi tặng. Tôi đọc rất nhiều sách báo, tiếng Việt có, tiếng Anh có, tiếng Pháp cũng có, và học được rất nhiều điều. Nhưng cái công việc nhàn hạ quá, sau khi làm xong việc tôi chưa biết làm gì ngoài đọc sách. Phải vài ngày sau, tôi mới biết dùng thì giờ nhàn hạ này để học tiếng Anh. Tôi chọn cho mình một cái góc nhỏ của thư viện, và ngày ngày 'dùi mài kinh sử' ở đây.
Cách học của tôi rất chậm. Mỗi sáng, tôi gom góp những tờ báo gói rau cải, xếp lại cho phẳng rồi đọc tin tức. Đó là những tờ nhật báo tiếng Anh của Thái Lan như "The Nation" và "The Bangkok Post". Những bản tin liên quan đến Á châu có những danh từ tôi thấy quen quen, nhưng không chắc. Thế là sáng nào tôi cũng tìm những chữ mình muốn học, sau đó vào thư viện tra từ điển xem cách phát âm ra sao, nguồn gốc của chữ, cách dùng như thế nào, v.v. Có khi suốt ngày tôi để tâm học chỉ một chữ! Cái thú vị của cách học từng chữ này là nó giúp cho tôi có căn bản và tự tin trong cách phân biệt và dùng tiếng Anh cho chính xác. Hồi đó, tôi học bằng cuốn Từ điển Longman, tôi thích cuốn này lắm nên có xin về làm kỉ niệm cho đến ngày nay.
Quyển Từ điển Longman đầy ấp kỉ niệm.
Học từ căn bản dĩ nhiên là chậm và khó, nhưng lúc nào cũng hay hơn học theo kiểu tài tử trên ngọn. Tôi ghi chép rất cẩn thận những qui luật về văn phạm tiếng Anh. Có khi tôi viết ra cách phát âm và tự lầm bầm đọc (chắc như người điên). Sau vài tháng tự học, tôi thấy cuốn sổ tay của mình đã trở thành một cuốn sách văn phạm tiếng Anh, và tôi cũng thấy mình tự tin hẳn lên, mặc dù nói chưa được nhiều, vì không có cơ hội thực hành đối thoại.
Trò con nít (Trạng Quỳnh)
Học tiếng Anh hay nhất là phải có một người bạn. Thời đó, tôi may mắn quen với một anh bạn gốc Huế tên A (sau này định cư ở Melbourne và tôi mất liên lạc). Chính anh A nói với tôi là mình phải học tiếng Anh từng chữ một. Anh lí giải, chỉ cần có vốn ngữ vựng khoảng 2500 từ là mình "nắm" được tiếng Anh. Nói là 2500 từ, nhưng 'phăng' ra thì cũng thành 10,000 từ. Trưa nào tôi và anh ấy cũng đố nhau về tiếng Anh. Có những chữ tôi biết, anh ấy không biết, hay ngược lại, và thế là vốn ngữ vựng tăng lên nhanh chóng. Học nhau từ đố chữ này cũng hay, vì nó giúp mình nhớ lâu.
Có một chuyện buồn cười và trẻ con mà tôi nghĩ cần phải kể ra ở đây. Khi thấy mình có đủ "võ chữ" anh A và tôi bàn cách "phục hận" cái anh chàng sếp người Miên. Anh A nói vì anh ta xem thường bọn mình quá. Anh A và tôi bày cách 'phục kích' rất hết sức ... Trạng Quỳnh. Chúng tôi tìm cách la cà với anh ta, rồi đưa ra những chữ thật khó để xem anh ta có bí không; khi anh ta bí, chúng tôi nói "trình độ của mày như vậy mà làm sếp tao à?" Anh người Miên lớn tuổi hơn và kinh nghiệm đời hơn nhìn chúng tôi mỉm cười và nói "Cố gắng đi học thêm đi mấy ông tướng!"
Đúng là cái trò nhỏ nhặt và ranh mãnh. Cái trò đó chúng tôi mang từ Việt Nam sang đây và khi va chạm với thế giới lớn hơn mới thấy mấy trò đó trẻ con biết là dường nào. Tưởng rằng hơn người ta một chữ hay bắt bẽ người ta một điều gì đó là mình "ngon lành" lắm, nhưng trong thực tế nó chỉ chứng tỏ cái hèn mọn và nhỏ mọn của mình. Và, dốt nữa. Anh A và tôi học được bài học này từ anh sếp người Miên. Tôi rất phục anh sếp này, giờ không nhớ anh tên gì, chỉ nhớ anh đi định cư ở bên Pháp.
Bangkok hoa lệ và tử tế
Ở trại Phanat Nikhom được khoảng 6 tháng, tổ chức ICM (Inter-governmental Committee for Migration) của Liên hiệp quốc sắp xếp cho tôi lên đường đi định cư. Nhóm chúng tôi chỉ đi Úc, và trong chuyến đi Úc có tất cả 54 người. Chúng tôi khởi hành bằng xe bus từ Phanat Nikhom lên Bangkok.
Sau khoảng 5 giờ đi đường, chúng tôi đến thành phố Bangkok. Sau cả năm trời bị giam cầm trong các trại tị nạn ở rừng sâu núi thẳm, tôi đến Bangkok bằng một tâm trạng của một người nhà quê ra tỉnh. Lần đầu tiên trong đời thấy xa lộ chồng chéo lên nhau và xe hơi chạy như mắc cửi, tôi trố mắt nhìn những building cao vút, những khu phố tấp nập, tôi thấy Bangkok đã bỏ Sài Gòn quá xa. Lúc đó tôi mới thấy "Hòn ngọc Viễn Đông" Sài Gòn của Việt Nam quá ư là lạc hậu và thậm chí bé nhỏ!
Bangkok vào thập niên 1980s, tức giống như Việt Nam ngày nay (xe hơi và xe Honda đi chung).
Nhưng lên Bangkok, chúng tôi lại được chuyển vào một ... trại giam khác. Đó là trại Immigration Detention Center (IDC). Đó là trại giam nằm trong trung tâm thành phố, có rất nhiều người ngoại quốc. Trại giam hơi âm u, có lẽ chúng tôi đến đó trong một ngày mưa, nhưng có ánh sáng mặt trời từ ngoài. Tất cả chúng tôi được dồn vào một cái phòng khá lớn, nhưng đủ cho khoảng 40 người, tất cả đều chờ để lên máy bay đi Úc. Chúng tôi ở đây được hai ngày. Ngày nào cũng được cho ăn uống đàng hoàng, và món ăn rất sạch sẽ.
Hai ngày sau, một buổi sáng, xe bus đến nơi chở chúng tôi ra phi trường. Ui chao, lần đầu tiên tôi thấy phi trường Bangkok quá rộng lớn và quá sang trọng. Đi đến đâu cũng toàn thấy những hàng quán đèn điện sáng trưng, ai cũng tỏ ra sang trọng và lịch sự. Ngay cả mấy người cảnh sát cũng rất thân thiện. Nhưng chúng tôi không được rời hàng, mà phải đi theo người hướng dẫn cứ như là đàn cừu theo người chăn cừu vậy.
Hôm đó tôi diện một bộ đồ, quần tây đen, áo sơ mi trắng, và mang đôi dép. Lúc ra phi trường mới thấy mình quá "quê mùa" vì ai cũng mang giầy! Nhưng tôi và nhiều người cùng cảnh ngộ lúc đó lấy tiền đâu mà mua giầy. Bây giờ nếu có được tấm hình hôm tôi và đoàn tị nạn ra phi trường chắc là thú vị lắm.
Ngồi trong phòng chờ đợi ở phi trường, trong lòng tôi lúc đó buồn vui lẫn lộn. Lúc đó, tôi không bao giờ có cảm tình (nếu không muốn nói là ghét) chính phủ Thái Lan, vì thái độ làm ngơ và bất nhẫn của họ trước thảm nạn trên Biển Đông, nhưng dù sao đi nữa, đất Thái cũng đã cưu mang tôi trong thời gian khó khăn nhất, và vì đã có một sự gắn bó như vậy, tôi cảm thấy buồn buồn khi phải chia tay Thái Lan. Cuộc chia tay nào mà chẳng buồn! Vui là vì tôi biết sắp tới đây mình sẽ được tự do, được sang một xứ sở mà tôi nghĩ chắc văn minh lắm, hiện đại lắm, và nhất là không còn bị giam cầm trong các trại tị nạn nữa.
Nghĩ lại cuộc đời là 'một cõi đi về'. Phải hơn chục năm sau tôi mới có dịp quay lại Thái Lan. Lần đầu chỉ là chuyển chuyến bay đi Âu châu; lúc đó đêm về ngồi trong phòng lầu 25 khách sạn Montien nhìn về Việt Nam mà buồn vô hạn, vì chỉ 1 giờ là về đến nhà, nhưng không thể. Rồi đến giữa thập niên 2000s, tôi có dịp đi lại Thái Lan nhiều hơn, có lần được diện kiến cả hoàng gia Thái Lan (cô công chúa [?] và một bà công nương). Lúc đó, tôi mướn một chiếc taxi đi về trại Phanat Nikhom để tìm lại kỉ niệm cũ, nhưng tất cả đã thay đổi, không còn gì để tìm. Rồi vài năm sau, lại có dịp ở Thái Lan cả tháng trời nhân dịp "sabbatical leave", có dịp đi nhiều nơi trên đất Thái mới thấy Việt Nam mình tụt hậu ra sao.
Nhưng thôi, hãy cứ hưởng trọng niềm vui trong giây phút hiện tại. Nghĩ ngợi một hồi thì có người của ICM lùa chúng tôi lên máy bay. Trời ơi! Lần đầu tiên trong đời thấy máy bay sao mà lớn quá chừng (hồi xưa cũng thấy máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhứt, nhưng không lớn như cái máy bay này). Sau này tôi mới biết là Boeing 747, của hãng hàng không QANTAS của Úc. Chúng tôi được sắp xếp ngồi ở những hàng ghế sau cùng trong máy bay. Lúc đi ngang qua các hàng ghế, thấy hành khách nhìn chúng tôi với ánh mắt vừa ái ngại vừa thương cảm.
Tôi được sắp xếp ngồi một cái ghế bên cửa sổ. Đây là lần đầu tiên tôi được đi máy bay, nên thấy cái gì cũng mới với mình. Cứ nhìn ra cửa sổ thấy máy bay tập nập, xe cộ đi lại liên tục, một quang cảnh rất nhộn nhịp. Nhìn trên mấy hàng ghế thì thấy ai cũng sang trọng, có người phì phèo thuốc lá xem ra rất thoải mái. Còn tôi thì cứ miên man suy nghĩ về nước Úc. Tôi lo thầm, chẳng biết mình sẽ làm gì ở xứ sở mới. Nói như anh chàng phái đoàn Úc, tiếng Anh thì không đủ để đi học lại, còn làm ruộng thì cũng chẳng có tiền. Phía trước là một tương lai mờ mịt.
Đang suy nghĩ miên man thì chiêu đãi viên mang đến cho chúng tôi khăn lau mặt thơm phức và li nước cam vàng tươi vô cùng mát mắt. Sau nhiều tháng bị đối xử như tù nhân, đây là lần tôi được phục vụ và đối xử tốt. Tôi đã thật sự xúc động, và ngạc nhiên không hiểu sao họ lại tử tế với mình như thế. Tôi nhận ra rằng mình đã đến thế giới văn minh.
Những ngày đầu trên đất Úc
Sau 3 lần chuyển trại, lần này thì tôi được đi Úc thật sự. Thật ra, lúc lên máy bay tôi chưa biết mình đi đâu hay sắp định cư ở thành phố nào! Chỉ biết đi khỏi nơi khổ cực này để làm lại cuộc đời là ok rồi. Hóa ra là tôi được đi Sydney. (Hồi đó, có người được 'phân công' đi Darwin, Melbourne, Brisbane, v.v.) Lúc đó, không ai hình dung ra nơi mình sắp tới như thế nào, dù đã qua vài lớp học về văn hóa nước Úc và phong tục tập quán người Úc.
Hình ảnh người tị nạn mới đến Úc: nghèo nàn, nhưng rạng rỡ và ơn nghĩa. Một nhóm người tị nạn mới đặt chân tới Úc. Họ trương biểu ngữ cám ơn nước Úc đã cưu mang họ. Họ cũng nói dùm tôi và hàng trăm ngàn người Việt khác.
Sau hơn 8 giờ bay, máy bay đang hạ dần cao độ, tôi đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, thành phố Sydney đã hiện ra trong tầm mắt. Tôi sắp tới Úc. Cái ý tưởng đó làm cho tôi bồi hồi, xúc động một cách khó tả. Trên máy bay, cô tiếp viên nói trên loa câu "Welcome to Sydney, Australia!" (Chào mừng các bạn đến Sydney, Úc Đại Lợi) và thông báo cho chúng tôi biết hôm nay là ngày 26 tháng 1 năm 1982, ngày Quốc khánh của Úc. Tôi đến Úc đúng ngày Quốc Khánh!
Sydney không 'hoa lệ'
Mới ra khỏi phi trường và qua hải quan, tôi đã thấy choáng với cái nóng. Phải nói là nóng hừng hực. Người bạn đón tôi nói rằng nhiệt độ hôm đó lên đến 42 độ C. (Nhưng sau này có người kiểm tra thì không phải nóng như vậy, chỉ chừng 38-40 gì đó, nhưng vẫn là rất ... nóng). Úc đang vào mùa hè. Hèn gì những người đứng đón thân nhân ở phi trường ai cũng mặc đồ mát mẻ, nam thì quần short áo thun, nữ cũng vậy. Trông phi trường và quang cảnh chung quanh chẳng có gì là 'hoa lệ' cả, thậm chí có phần kém sang trọng hơn phi trường Bangkok. Thôi thì: Chào mừng bạn đến Sydney!
Đứng xếp hàng một hồi thì được nhân viên di trú “lùa” lên một cái xe bus (lúc đó là rất lớn với tôi). Nhóm chúng tôi chắc cũng độ hơn 30 người, chẳng ai biết mình đi đâu, nhưng chỉ biết là từ này mình hưởng tự do sau những ngày tháng cực khổ và đắng cay ở Thái Lan. Xe chạy bon bon trên đường, chẳng thấy thành phố hay nhà cao tầng đâu cả, mà chỉ toàn là nhà cửa bằng gạch đỏ. Nhà nào cũng có vẻ rộng rãi, tươm tất, và hầu như tất cả đều có sân cỏ phía trước. Tôi còn nhớ xe chạy dọc theo một con lộ rất đẹp, hai bên là cây cối um tùm, xanh tươi, sạch sẽ. Sau này tôi mới biết đó là con lộ Henry Lawson Drive (tên của một nhà thơ nổi tiếng người Úc). Một lần nữa, không hề thầy Sydney tráng lệ gì cả. Thật ra, nhìn có vẻ đồng quê hơn, nhưng là đồng quê quá đẹp.
Sau độ 30 phút thì đến một khu nhà rất rộng tên là Cabramatta Hostel. Lúc đó, tôi còn chưa biết hostel là gì, vì hồi nào đến đó tôi chỉ nghe đến hotel, chứ có biết hostel là gì đâu. Cabramatta Hostel nằm trên một cái đồi thuộc vùng Cabramatta, nơi mà sau này trở thành “thủ đô” của người Việt ở Sydney. Từ Hostel đi bộ ra khu phố Cabramatta chừng 15 phút. Cabramatta nằm ở vùng Tây Nam Sydney, là nơi mà dân địa phương gọi là ngoại ô lao động, ý nói người nghèo. Thời đó (tức ~40 năm trước) Cabramatta là một nơi bán nông thôn. Đường xá rất ít xe qua lại, các dãy phố tương đối cũ kĩ nằm im lìm, người đi phố chẳng bao nhiêu. Năm 1982, Cabramatta chỉ có 1 nhà hàng Việt Nam và 1 tiệm thực phẩm Á châu duy nhất nằm trên đường John. Chúng tôi là khách hàng trung thành của tiệm thực phẩm này, còn quán phở kia thì ... chưa đủ tiền để phung phí.
Đây không phải là Cabramatta Migrant Hostel, nhưng Cabramatta Migrant Hostel mà tôi tạm trú vào đầu năm 1982 có những căn hộ y chang như trong hình. Có cả sân chơi nữa. Cỏ thì lúc nào cũng xanh rì, vô cùng đẹp mắt. Thường, người tị nạn chỉ ở đây vài ba tháng trước khi ra ngoài mướn nhà và tìm việc làm.
Hostel này có chừng 10 dãy nhà hai tầng. Mỗi dãy nhà có ~20 căn hộ, mỗi căn có 2 phòng ngủ và 1 phòng khách & bếp. Người tị nạn và di dân khắp nơi trên thế giới được qui tụ ở đây một thời gian để học tiếng Anh và văn hoá Úc trước khi ra ngoài ổn định cuộc sống. Ngoài người Việt, Khmer, Lào ra, còn có người Nga, Ba Lan, Tiệp, Hungary, Hồng Kông, Trung Quốc, v.v. Nhưng có lẽ đông nhất vẫn là người Việt. Tôi ở hostel này được 3 tháng trước khi tìm được việc làm, mướn nhà và dọn về vùng Campsie (gần Sydney hơn).
Bất đồng văn hóa xảy ra ngay từ những ngày đầu tiên ở hostel này. Nói chính xác hơn là văn hóa ẩm thực. Ở đây, người ta có nhà bếp rất lớn và đầu bếp hẳn hoi. Nhìn cái nhà bếp rộng y như một căn nhà 3 phòng! Nhà bếp phục vụ 3 bữa ăn: điểm tâm, trưa, chiều. Sáng nào cũng có những món thuần Tây, như bánh mì nướng, trứng chiên, bacon, khoai tây, cà nướng, v.v. Những món mà tôi hay thấy trên phim thời còn ở Việt Nam, và nghĩ rằng chắc sang và ngon lắm. Nhưng thử rồi mới thấy hỡi ơi! Hồi nào đến giờ chỉ quen mì, hủ tíu, phở, chứ đâu quen mấy món này. Tuy nhiên, phải cả năm sau tôi mới làm quen với các món ăn sáng như thế này, và khi đã quen thì lại thấy ... ghiền.
Buổi trưa và chiều còn 'thê thảm' hơn nữa. Thoạt đầu, nhà bếp phục vụ những món như bò, trừu, gà, rất ít thịt heo. Lâu lắm mới có cơm. Mà, cách họ nấu dĩ nhiên là rất khác chúng ta. Chẳng hạn như cơm họ nấu rất nhão, rất khó ăn; còn các món thịt thì họ dùng sữa rất nhiều, và cách xử lí chưa tốt hay sao ấy nên vẫn còn mùi hôi. Tuy nhiên, nhìn từ ngoài thì thấy rất hấp dẫn, nhưng ít ai dám ăn. Lúc đó, người Việt chúng ta chưa quen ăn thịt trừu. Thành ra, hôm nào có thịt gà thì các dòng xếp hàng toàn là 'đầu đen' (dân Á châu); hôm nào có thịt trừu và bò thì các dòng xếp hàng toàn là dân da trắng. Những hôm nào nhà bếp phục vụ thịt trừu, chúng tôi đi mua mì gói về nấu ăn. Nhưng nhà bếp nắm lấy tình hình rất nhanh, nên sau này họ tuyển đầu bếp Á châu. Thế là từ đó chúng tôi được ăn cơm, ăn thịt gà nấu theo kiểu Á châu, có khi có cả nước mắm nữa.
Nhớ nhất là món gà chiên của Kentucky Fried Chicken (sau này đổi tên là KFC). Nhớ ngày đầu tiên, anh Trung hỏi thèm món gì ở Úc, tôi nói ngay thèm gà nướng hay thấy trên phim và trái táo. Anh cười nói: tưởng gì, mấy món này dễ mà. Anh đi ra KFC mua 2 con gà nướng về và một bịt táo, nhiều ơi là nhiều, và thêm bao nhiêu thức ăn khác. Ôi, nhìn con gà được chiên/nướng vàng ơm, nó hấp dẫn làm sao, y như trong phim Tây tôi xem trước 1975. Tôi thử ngay cái đùi gà, thì thấy hơi lạ, sao nó không giống gà bên Việt Nam. Đùi gà gì mà mềm quá. Còn nướng thì chẳng có ngũ vị hương gì cả, chẳng có mùi thơm. Nói chung là ... dở. Nhưng phải 'thanh toán' cho hết. Ăn một lần là không muốn quay lại. Phải mấy năm sau tôi mới dám ăn món gà nướng này. Hóa ra, sau này mới biết gà bên này toàn là gà công nghiệp, nó như bột thôi, chứ chẳng ngon lành gì cả.
St Vincent de Paul
Ngày đầu tiên, sau khi làm thủ tục, tôi được cho 30 đôla Úc. Đó không phải là tiền của Chính phủ, mà tiền của Hội từ thiện St Vincent de Paul. Ngoài ra, tôi còn cho một cái phiếu để lãnh quần áo. Tôi đến Úc với 0 cent trong túi và đúng 2 bộ đồ. Cầm cái phiếu đi lãnh đồ, tôi tưởng là đồ mới, nhưng không phải. Đó là cái tiệm bán quần áo cũ cho người nghèo do Hội St Vincent de Paul điều hành. Nói là đồ cũ nhưng còn mới và đẹp với tôi lắm. Theo qui định, tôi được chọn 3 bộ đồ (quần và áo) và một đôi giày (vì tôi đến Úc bằng đôi dép, dân vô sản chính hiệu!) Cho đến nay, tôi vẫn giữ 3 bộ đồ này làm kỉ niệm, còn đôi giày thì đành phải “chia tay” với nó vài năm sau. Với vài bộ đồ như vậy là cũng đủ trong bước đường đầu tiên trên đất Úc.
Kể ra cũng hay, cuộc đời tôi ở Úc gắn liền với cái tên "St Vincent." Ngay từ đầu được hưởng lợi từ St Vincent de Paul, đến khi sau này thì làm cho Bệnh viện St Vincent's gần 30 năm! Có thể nói sự nghiệp tôi gắn liền với nơi này. Đó cũng chính là lí do tại sao sau này tôi tích cực cho quần áo và cho tiền Hội St Vincent de Paul.
Lớp học và cô giáo đầu tiên
Có quần áo rồi, đến lúc đi học tiếng Anh. Những ngày đầu tôi cũng ghi danh học tiếng Anh. Lớp học có rất nhiều di dân từ khắp nơi, nhưng đông nhất vẫn là Việt Nam. Các học viên Đông Âu nói tiếng Anh lơ lớ rất khó nghe, mà di dân Á châu còn ... tệ hơn. Khi có dịp tiếp xúc với các di dân tị nạn từ các nước như Ba Lan, Hungary, Tiệp, v.v. tôi phát hiện ra là họ có những nỗi lo y chang như người Việt Nam. Họ sợ công an theo dõi, họ sinh hoạt có vẻ khép kín vì không tin ai cả, và khi nói về hoàn cảnh cá nhân thì họ rất ngập ngừng. Hóa ra, dân tị nạn Tây cũng như Ta đều rất giống nhau, vì tất cả đều xuất phát từ thể chế XHCN. Bà giáo thì khuyên rằng ở đây có luật pháp đàng hoàng, chẳng sợ ai cả, và ở đây không có 'công an', chỉ có police (cảnh sát) thôi. Bà ấy lấy vài tờ báo ra và chỉ những cái tít chỉ trích chính phủ hàng ngày, rồi tươi cười chỉ vào hình ông thủ tướng và nói: "Mai mốt tôi không bầu cho thằng cha này." Tôi kinh ngạc. Trời ơi, sao bà dám nói oang oang như vậy!?
Cách dạy tiếng Anh ở đây chủ yếu là để học viên có đủ kiến thức và chữ nghĩa để đi xin việc, chứ không để học lên cao. Cô giáo là một người rất tuyệt vời về kĩ năng sư phạm và hết sức vui tính. Cách dạy chủ yếu là đàm thọai, hơn là viết. Mục tiêu là giúp học viên sớm hội nhập và có thể đi xin việc. Bà giáo có vẻ thích tôi, một phần có lẽ là học nghiêm túc, một phần là hỏi hoài. Nhớ có lần bà ra đề là viết một lá thư cám ơn cô giáo mà mình nghĩ trong tâm tưởng; tôi viết lá thư và chữ cuối là "As always, with affection" vì tôi học từ một cách viết trên tạp chí Reader's Digest trong trại tị nạn. Bà giáo đọc lá thư, rồi đến giờ giải lao kêu tôi ra ngoài nói riêng rằng không nên viết như vậy, vì cái chữ đó chỉ dành cho ... tình nhân! Thế là học bài học về cách viết thư.
Nhưng tôi chỉ học được một tuần thì bỏ lớp học. Ngày nào cũng “How are you”, “I am fine, thank you”, "How long have you been here", “I am looking for a job”, v.v. Lớp học có những học viên với trình độ rất khác nhau, nên cách dạy cũng rất chậm. Tôi nghĩ trong bụng với cách học này thì mình tự học còn hay hơn. Nên, chỉ vài tuần sau thì bỏ học ... Ngày tôi quyết định nghỉ học, tôi báo cho cô giáo biết. Cô giáo, lúc đó đã gần 50 tuổi, nói rằng vài năm nữa sẽ có lễ kỉ niệm 200 năm ngày thành lập nước Úc, và bà nói sẽ hẹn tôi ở cầu Harbour Bridge. Nhưng hẹn cho vui thôi, chứ đến ngày lễ thì làm sao tìm lại cô giáo đầu tiên. Nhưng hình ảnh về một cô giáo người Úc nhanh nhẹn, hoạt bát, vui tính, và nhất là rất thương người tị nạn không hề phai nhòa trong kí ức tôi.
Thủ tướng ... khóc
Tôi đến Úc trong lúc nền kinh tế đang suy thoái (depression). Suy thoái kinh tế dẫn đến biến động chính trị. Lúc đó, ông thủ tướng Malcolm Fraser thuộc đảng Liberal đang cầm quyền, và vì kinh tế suy thoái nên ông không được tín nhiệm mấy. Nhưng đối với người tị nạn thì ông Fraser là một ĐẠI ÂN NHÂN. Chính ông là người ra quyết định nhận người tị nạn Việt Nam, trong lúc công chúng đang bàn cãi chẳng biết đối phó với 'làn sóng da vàng' này. Quyết định của Thủ tướng Fraser gây ra rất nhiều tranh cãi, nhất là trong lúc Úc mới bước ra khỏi chủ trương "White Australia Policy" (tức không muốn nhận di dân từ các nước ngoài Âu châu). Nhưng ông đã làm được cái việc can đảm đó, và lịch sử rất công bằng với ông như là một cứu tinh của hàng vạn người tị nạn.
Thủ tướng Malcolm Fraser, một đại ân nhân của người Việt tị nạn. Người quyết định nhận người tị nạn Việt Nam trong lúc nền kinh tế Úc đang suy thoái và công chúng không ưa người di dân Á châu. Ông qua đời năm 2015, và đám tang của ông có hàng ngàn người Việt đến chia buồn.
Thủ tướng Fraser thất cử năm 1983. Hình này mang tính lịch sử vì ông khóc trước ống kính khi nói lời chia tay với công chúng. Ông là người rất tình cảm.
Sau này (1983), 1 năm sau tôi đến Sydney, nước Úc tổ chức tổng tuyển cử. Ông Fraser và đảng Liberal bị thất cử, và ông không còn làm thủ tướng nữa. Thủ tướng mới là Bob Hawke thuộc đảng Labor, cũng là một người ủng hộ người tị nạn rất nhiệt tình. Tôi nhớ hoài hình ảnh ông Fraser khi thất cử, vì ông ... khóc. Trong đêm tuyên bố ai thắng cử, phe Labor ăn mừng lớn, thì phe Liberal rất thảm sầu. Ông Fraser nói chuyện trước ống kính, không cần giấy note gì cả, ông cám ơn cử tri đã bầu và tin tưởng ông, ông nói về tình hình kinh tế bị suy thoái nhưng tin rằng [nói theo tiếng Việt là] 'sau cơn mưa trời lại sáng'. Nói xong, ông mếu máo khóc. Trời! Lần đầu tiên trong đời tôi thấy một vị thủ tướng khóc rất thật trước ống kính. (Sau này tôi cũng chứng kiến ông thủ tướng Bob Hawke khóc vì xe tăng Tàu cán chết người biểu tình ở Thiên An Môn). Những giọt nước mắt đó cho thấy chính trị gia ở đây tình cảm quá.
Họ (chính khách ở đây) rất khác với những người làm chính trị bên nhà. Họ có thể chẳng có trường lớp chính trị gì cả, mà xuất thân như chúng ta thôi. Người thì luật sư (rất nhiều), kẻ từng là bác sĩ, kĩ sư, doanh nhân. Lại có những người xuất thân là dân lao động như buôn bán cá tôm. Họ trở thành dân biểu vì họ có quan điểm hay chính sách đại diện cho cử tri, họ nói lên tiếng nói, tâm tư và nguyện vọng của cử tri. Họ không có bằng cấp chính trị, bởi vì ở đây không có trường đào tạo làm chính trị. Do đó, có thể nói họ là những 'chính khách tài tử'. Cái tính tài tử đó thể hiện qua những lời nói và hành động rất gần dân.
Điều này rất khác với Việt Nam, nơi mà người làm chính trị được đào tạo rất bài bản. Từ lúc trẻ đã có đoàn đội uốn nắn tư tưởng, lớn lên có đảng tạo hình suy nghĩ, rồi có trường chính trị dạy làm lãnh đạo, nói chung là rất có hệ thống. Có thể nói những người làm chính trị ở VN là rất chuyên nghiệp -- họ thật sự "làm chính trị".Do đó, cách nói và suy nghĩ của họ rất rập khuôn, thiếu tính phong phú, thiếu sự ngạc nhiên, và quan trọng hơn hết là thiếu tri thức -- wisdom. Họ làm chính trị, chứ không phải là 'chính khách'. Ngược lại, các 'chính khách tài tử' ở đây họ rất gần người dân, vì họ xuất phát từ dân và nói ngôn ngữ của người dân, họ có những câu nói và hành động rất 'trần ai', có khi ... nông nổi. Do đó, ngay từ những ngày đầu ở đây, tôi thấy mấy người làm chính trị ở Úc vui hơn nhiều so với những người làm chính trị bên VN.
Bài học tiếng Anh đầu tiên: "Dymock" và "Oxford"
Quay lại chuyện lớp học tiếng Anh. Sau một thời gian ngắn, tôi quyết tâm tự học. Để tự học, tôi phải có cuốn từ điển Anh – Anh, vì tôi quan niệm học tiếng Anh từ tiếng Anh thì dễ hơn. Sau khi có tiền từ St Vincent de Paul, việc đầu tiên tôi nghĩ đến là mua một cuốn từ điển tiếng Anh. Hồi thời còn ở trại tị nạn, tôi học tiếng Anh từ cuốn từ điển Longman rất hiệu quả, do đó khi qua đây tôi phải tìm mua cho được cuốn từ điển Longman. Bà giáo thì dặn là nên mua Từ điển Oxford. Nhưng ở Sydney, chỉ có mấy nhà sách lớn ngoài Sydney mới có bán, chứ vùng bán thành thị như Cabramatta thì không có tiệm sách. Tôi đón chuyến xe lửa (thật ra là xe điện) từ Cabramatta đi Sydney (tức trung tâm thành phố). Sau khoảng 1 giờ, tôi cũng đến ga Town Hall.
Nhà sách Dymock, mà tôi đọc tên sai be bét! Chính tại nơi đây, tôi mới học được cách phát âm đúng chữ "Oxford". Từ kinh nghiệm này, mỗi lần gặp chữ Anh là lạ, tôi phải tìm hiểu cho kĩ để đọc đúng, chứ không chủ quan theo cách đọc tiếng Pháp.
Bước lên đường George, tôi như người nhà quê ra tỉnh (mà đúng như vậy). Nhìn chung quanh building nào cũng cao vút, cứ nhìn sự hoành tráng của các tòa nhà này chắc chẳng khác gì mấy người bộ đội mới vào Sài Gòn nhìn building mà rớt nón cối (chuyện tiếu lâm). "Ấn tượng" nhất là cái tòa nhà Victoria được xây theo kiểu sandstone, trông rất có duyên và đúng với nghĩa hoành tráng. Người ta thì đi lại tấp nập, hình như ai cũng bận rộn. Điểm đến của tôi là nhà sách Dymock mà bà giáo nói có bán sách. Bà còn dặn là lên khỏi ga Town Hall là sẽ thấy. Nhưng giữa cái nơi 'phồn hoa đô thị' này, nhà sách Dymock nó nằm ở đâu.
Tôi hỏi hết người này đến người kia để biết nhà sách Dymock ở đâu. Ai cũng tử tế dừng lại nghe tôi hỏi, nhưng khổ nỗi tôi đọc chữ Dymock sai nên họ không giúp được gì. Khi một ông tương đối già dừng lại, tôi nói rằng tôi tìm nhà sách Dymock. Tôi đọc là "Đai-Mốc". Ông già chăm chú lắng nghe và cố tìm trong kí ức nhà sách này ở đâu, nhưng ông chịu thua. Ông hỏi tôi đánh vần tên nhà sách, và tôi sẵn sàng làm ngay. Khi tôi đánh vần xong thì ông vỗ trán kêu lên: "Ah, Đi-Mịk"! Tôi ngỡ ngàng và tự hỏi sao tiếng Anh gì mà phức tạp thế. Rồi, ông ấy chỉ đường cho tôi đến nhà sách, cách đó chẳng bao xa.
Đến nhà sách lại học thêm một bài học phát âm tiếng Anh. Nhà sách Dymock rất lớn, có đến ba tầng, sách nhiều ơi là nhiều. Trong cái thế giới đó thì khó tìm cuốn từ điển, nên tôi phải hỏi người bán sách. Tôi tự tin nói "tôi muốn mua cuốn từ điển Oxford". Tôi đinh ninh rằng chiếc xe Ford mình đọc là "Fo.d", vậy thì Oxford đọc là "Ox-Fo.d". Ở Việt Nam ai cũng đọc như vậy mà. Anh chàng bán sách gãi đầu không biết tôi tìm từ điển gì. Anh ta lại kêu tôi viết xuống tờ giấy trắng, và khi tôi viết xong thì anh ta kêu lên "Ah, Ox-fớd"! Cuốn từ điển đó theo tôi cũng năm tháng, và đến nay đã 37 năm tôi vẫn còn giữ nó trên kệ sách như là một kỉ niệm về học tiếng Anh, dù ngày nay tôi ít khi nào đụng đến nó.
Đến đây thì tôi nghĩ không thể chủ quan trong cách phát âm tiếng Anh được. Không phải như tiếng Pháp, viết sao thì đọc giống vậy, còn tiếng Anh thì nhìn thấy như vậy mà đọc thì không phải vậy. Sau này tôi còn phát hiện rất nhiều chữ mà nếu không có cọ sát với xã hội ở đây thì rất khó phát âm đúng. Những chữ tiêu biểu đó là allowance, kibosh, celtic, candidate, niche, và những cái tên như Beauchamp, Worcester, Chloe, Bohun, Murray, McMahon, v.v. Những chữ/tên này, đa số (có thể 99%) người Việt dù đã có học thạo tiếng Anh vẫn phát âm sai.
Làm phụ bếp
Sau vài tuần ở trong hostel, tôi bắt đầu tìm việc làm. Mỗi ngày tôi dò đọc mục “Employment” trong báo để tìm việc. Có lúc đi theo nhóm, có lúc đi một mình. Dạo đó, hễ có việc gì là lao vào làm, chứ không có lựa chọn. Người khá tiếng Anh thì xin đi làm lựa thư trong bưu điện, người kém tiếng Anh thì xin việc làm ở mấy hãng xưởng (thời đó Úc còn nhiều hãng lắm). Nhưng không may cho tôi, mỗi lần đi phỏng vấn là mỗi lần bị thất bại, vì tôi nói là chưa có kinh nghiệm làm hãng xưởng bao giờ. Ở xứ này, không có kinh nghiệm thì người ta không muốn nhận mình vào làm, có lẽ vì ngại mất thì giờ và tiền bạc để huấn luyện.
Một hôm, trên đường về nhà sau một lần nữa thất bại trong một cuộc phỏng vấn ở một hãng điện, tôi ngẫu nhiên để ý đến một khách sạn có tên “Belmore Hotel” với kiến trúc hơi lạ làm mình dễ nhớ. Tôi lại quay sang tờ báo và lần này, tôi để ý thấy Bệnh viện St Vincent's đang cần một phụ bếp (kitchen hand). Tôi nghĩ tại sao mình không xin làm phụ bếp mà lại phải loay hoay tìm việc trong các hãng xưởng? Nghĩ thế, tôi vội xuống ga và đón xe điện khác đi ngược về hướng Đông thành phố Sydney, nơi bệnh viện St Vincent's toạ lạc, để xin việc.
Sau khi điền xong đơn, tôi được bà giám đốc nhà bếp tên là Georgina Ramsey phỏng vấn. Bà hỏi tôi về lí lịch cá nhân, về kinh nghiệm làm trong nhà bếp. Vì đã thất bại quá nhiều lần trong các kì phỏng vấn trước đây, kì này tôi làm gan nói là có kinh nghiệm làm trong nhà bếp. "Làm ở đâu?" Tôi nhớ ngay đến cái tên Belmore Hotel và trả lời Belmore Hotel! “Làm ở đó bao lâu?” “Dạ, ba năm.” Bà ta nhìn tôi mỉm cười một cách khó hiểu, nhưng quyết định nhận tôi ngay ngày đó, và hẹn tôi ngày mai sẽ bắt đầu đi làm. Tôi mừng quá và trên đường về nhà, tự đãi cho mình một tô phở!
Đây là Khách sạn Belmore thuộc khu ngoại ô Belmore. Hình này chụp vào thời 1960s, chứ không phải thời 1980s. Một hôm đi tìm việc về, xe lửa chạy ngang qua đây, tôi chú ý khách sạn này có thiết kế chẳng giống ai. Ngay lúc đó thấy báo Sydney Morning Herald đăng tin Bệnh viện St Vincent's tìm một "kitchen hand", tôi vội vàng chuyển chuyến xe đi ngược về Sydney và xin việc. Khi được hỏi có kinh nghiệm làm trong nhà bếp bao nhiêu năm, tôi nói 3 năm; làm ở đâu, tôi nói làm ở Belmore Hotel! Nhờ cái tên của khách sạn này mà tôi có việc làm và có tiền gửi về nhà. Và, cũng nhờ cái tên Belmore mà tôi gắn bó với St Vincent's gần 30 năm!
Ngày đầu khóc vì ... củ hành
Ngày đầu tiên nhận việc là một ngày đầy ấp kỉ niệm vui buồn. Công việc tôi được giao phó là rửa nồi niêu, chén bát, và đặc biệt là xắt củ hành Tây. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời tôi thấy cái gì cũng lớn và cũng nhiều. Số lượng nồi và chén bát nhiều đến nổi không đếm hết. Nói là "rửa chén", nhưng thật ra là tất cả đều làm bằng máy. Cái máy rửa chén dài khoảng 6 mét, máy có ba đường băng để chén và nồi niêu xoong chảo trên đó, và có một bộ phận tự động chuyển những chén và nồi niêu xoong chảo sang một khu nước nóng để rửa. Đến đầu bên kia, có người chất đồ sạch xuống. Do đó, trên thực tế, suốt ngày tôi chỉ sắp xếp nồi chén chứ chẳng đụng tay rửa gì cả.
Ngoài việc đó, tôi phải làm hành tây và xắt rau cải cho phụ bếp. Khi hết việc thì phải tìm việc khác làm, như lau chùi nhà bếp cho sạch, nhìn cái gì thấy không vừa mắt là phải sửa. Nói chung là không có nghỉ. Không đợi người ta bảo phải làm gì, mà phải chủ động đi tìm việc để làm. Không có chuyện đứng xớ rớ. Mỗi ngày có 3 lần nghỉ giải lao: lần thứ nhất là khoảng 10 giờ sáng, được nghỉ 15 phút để uống cà phê; lần thứ hai là 1 giờ trưa, được 30 phút để ăn trưa; và lần sau cùng là 3 giờ chiều, 15 phút uống cà phê. Mỗi lần nghỉ là phải bấm card để quản lí xem mình có nghỉ quá giờ hay không; nếu nghỉ quá giờ, cho dù 5 phút quá giờ, thì sẽ bị trừ lương. Con người ở đây như là cái máy. Tuy nhiên, tôi thấy rất vui, vì trong thời kì khủng hoảng kinh tế mà có việc làm là may mắn lắm rồi. Vả lại còn có tiền gửi về Việt Nam để giúp nhà.
Kỉ niệm đáng nhớ nhất là ngày đầu tiên khi tôi thấy quá nhiều hành tây (trong hai bao bố rất lớn, loại bao mà thời dưới quê tôi thấy họ dùng làm bao gạo trong mấy nhà máy xay lúa), tôi hơi nao núng và hỏi anh chàng giám thị (tức sếp tôi):
- Tôi phải lột hết hai bao này à?
Anh chàng giám thị người Tân Tây Lan tên là Gerry nhún vai nói:
- Dĩ nhiên, đó là công việc của mày mà!
Tôi cảm thấy mình ngây ngô làm sao! Dĩ nhiên, người ta mướn mình vào làm việc đó, chứ còn việc nào khác! Chỉ lột được hai ba củ hành, là nước mắt tôi dàn dụa vì cay mắt. Gerry lại thấy tôi “khóc” bèn đến hỏi: “Mày có sao không?” Tôi trả lời “Không” và dần dần làm xong công việc một cách tốt đẹp. Nhưng chỉ hai ngày sau, sau vài lần thử nghiệm, tôi đã tìm được qui luật lột củ hành mà không rơi nước mắt. Mặc dù đó là một công việc khá nặng nhọc, nhưng tôi vẫn làm việc một cách vui vẻ, và qua đó tôi học được tính tập trung trong khi làm việc cho dù là việc lớn hay nhỏ.
Thỉnh thoảng tôi còn được giao công việc lo kho thực phẩm. Mỗi ngày, tôi kí nhận rất nhiều thực phẩm, thịt thà, rau cải, đồ hộp, đủ cả. Nhận xong là phải sắp xếp vào kho cho thứ tự và có ghi nhãn đàng hoàng. Làm việc ở kho thực phẩm là có dịp học tiếng Anh. Thoạt đầu, tôi rất sợ cái ... điện thoại. Số là khi giao hàng hay đặt hàng, người ta gọi điện báo trước và thủ kho phải ghi chép để báo cho người có trách nhiệm lo. Nhưng tiếng Anh của tôi tệ quá và mình cũng nhát, nên không dám bắt điện thoại. Anh chàng thủ kho lớn hơn biết và muốn giúp tôi, nên mỗi lần điện thoại reo là anh ta nói "Điện thoại của mày đó". Mấy lần đầu tôi chẳng hiểu gì cả, và trả lời thì chắc đằng kia cũng chẳng hiểu mình nói gì. Nhưng chỉ vài ngày là tôi nắm bắt được những danh từ thông dụng và với sự hướng dẫn phát âm của anh thủ kho, tôi bắt đầu thích và yêu cái điện thoại này quá. Khi đã tự tin về ngôn ngữ thì mọi việc đều dễ dàng.
Một góc nhà bếp của Bệnh viện St Vincent's. Công việc đầu tiên của tôi trên đất Úc là tại nhà bếp này. Tôi làm phụ bếp ở đây 1 năm.
Tuy nhiên, lúc nào tôi cũng bị ám ảnh vì tôi đã khai từng làm trong nhà bếp ở Belmore Hotel 3 năm. Một hôm, tôi gõ cửa văn phòng bà giám đốc Georgina Ramsey và chủ động thú nhận là tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm nhà bếp. Tôi cứ tưởng bà ta sẽ cho tôi nghỉ việc, nhưng bà ta mỉm cười và nói với tôi rằng bà ta đã biết ngay từ ngày đầu là tôi không có kinh nghiệm gì trong nhà bếp (vì tôi khai trên giấy chỉ mới đến Úc có 2 tháng), nhưng thấy hoàn cảnh khó khăn của tôi nên cho tôi cái công việc đó và nghĩ tôi có thể sẽ học hỏi từ từ cho quen việc.
Bà Ramsey còn nói cho tôi biết rằng trong nhà bếp này có rất nhiều người có bằng cấp cao từ các nước Đông Âu khác chứ chẳng riêng gì tôi. Bà khuyên tôi nên yên tâm làm việc và cuộc sống sẽ ổn định thôi. Trong thời gian này, tôi lân la tìm hiểu, và đúng như bà Ramsey nói, có rất nhiều người tị nạn và di dân từ các nước như Nga, Ba Lan, Hi Lạp, Nam Tư, Hồng Kông, Trung Quốc, v.v. cũng có cùng số phận như tôi. Tôi càng nao núng hơn khi được biết là phần đông họ đã làm việc cả 10 năm trở lên! Tôi lúc nào cũng xem bà Ramsey là một ân nhân, vì người giúp mình trong lúc khó khăn mới là ân nhân thứ thiệt.
Làm phụ bếp
Sau khoảng ba tháng làm nghề này, tôi được thăng chức làm phụ bếp. Bệnh viện St Vincent’s có khoảng 300 giường. Nhà bếp có 5 đầu bếp chính (chief), và mỗi bếp chính có một phụ bếp (cook assistant) như tôi. Nhiệm vụ của tôi lúc này “nhàn” và oai hơn nhiều so với chức vụ trước. Tôi được cấp đồng phục gồm áo trắng, quần tây carô, cái khăn chef quấn ngang cổ, còn đầu đội nón cao vút như nón của bếp trưởng. Trông rất oai! Mấy người bạn làm chung chúc mừng tôi lên chức.
Nhiệm vụ của tôi là chuẩn bị thịt thà, rau cải cho bếp chính. “Chuẩn bị” ở đây có nghĩa là tôi phải xào nấu sơ qua và giao cho bếp trưởng chế biến tiếp. Có khi bếp trưởng bận (hay làm biếng), anh ta giao cho tôi nấu luôn. Thật ra, trước đó tôi đã được được bếp trưởng giao cho làm luôn khâu thứ hai, tức là khâu chế biến. Tôi học rất nhiều cách chế biến của đầu bếp ở đây: họ dùng bơ sữa rất nhiều trong nấu ăn, họ còn dùng rượu để chế biến thức ăn. Làm việc này có cái “lợi” là tha hồ ăn uống. Thịt bò steak muốn ăn thì tự làm và tự thưởng thức thoải mái. Thậm chí có đứa còn năn nỉ nhờ tôi làm cho chúng nó ăn!
Nhưng công việc cũng chịu áp lực. Đây là nhà bếp bệnh viện, nên tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm cực kì nghiêm ngặt. Mỗi tuần có hai lần thanh tra, và họ đến không báo trước. Dân nhà bếp chúng tôi rất ngán anh chàng thanh tra này. Thanh tra đi vòng vòng nhà bếp, thấy cái gì không an toàn (như nước nóng chảy mà không có khóa, hay dao để bừa bãi), thiếu vệ sinh (thịt thà không ngăn nắp, rau cải không được xử lí đúng qui trình) là bị phạt ngay. Tôi học ngăn nắp nhà bếp từ cách làm việc và tổ chức trong nhà bếp này từ đó. Cho đến nay, mỗi khi đi đâu mà thấy nhà bếp lượm thượm tôi rất bực mình.
Ngán thanh tra đã là một áp lực, ngán cô kiểm nghiệm thực phẩm còn hơn nữa. Trước khi đem thức ăn cho bệnh nhân ăn thì có một người kiểm tra nhiệt độ và chất lượng. Người kiểm nghiệm là một phụ nữ, mặc áo choàng trắng và có đeo vài đồ nghề đo nhiệt độ, kích thước, v.v. Tôi còn nhớ cô ta có cái nhiệt kế cứ cắm vào soup hay thức ăn để xem nhiệt độ; nếu không đủ nhiệt độ thì tất cả suất ăn phải làm lại. Nếu phạm ba lần thì sẽ bị đuổi. Không có ngoại lệ. Kỉ luật và vệ sinh nhà bếp ở đây phải nói là nghiêm ngặt, và nó cũng giúp mình làm việc gì, dù nhỏ hay lớn, là phải làm cho kĩ và giữ an toàn cho mọi người.
Thử nghề ở "The Regent"
Làm ở nhà bếp Bệnh viện St Vincent mà tôi vẫn thấy mình còn dư thì giờ. Tôi nghĩ tôi có thể làm nhiều tiền hơn nữa, và thế là tìm chỗ làm ban đêm. Cơ hội đến với tôi khi Khách sạn Regent mới được mở ở Circular Quay (ngay [cầu] Harbour Bridge). Đây là khách sạn 5 sao, thời đó được xem là sang trọng nhất Sydney.
Khách sạn Regent cần tuyển rất nhiều nhân viên nhà bếp. Lương mà khách sạn trả thì … khỏi chê. Gần gấp 2 lần lương của bệnh viện. Thế là tôi đệ đơn xin đi làm ở khách sạn. Tôi được phỏng vấn, và cách họ phỏng vấn cũng rất độc đáo. Họ hỏi đôi ba câu về cá nhân, rồi dẫn xuống nhà bếp, và xem mình làm ra sao. Họ muốn xem tôi có kinh nghiệm như thế nào trong nhà bếp, cách tôi cầm dụng cụ nhà bếp ra sao, cách tôi giữ an toàn vệ sinh thực phẩm, v.v. Đương nhiên, vì tôi có “kinh nghiệm đầy mình” ở bệnh viện St Vincent’s, nên tôi “đánh bại” nhiều ứng viên khác.
Khi vào nhà bếp tôi gặp vài người quen từ trại tị nạn bên Thái Lan. Trong đó có thằng em tên Trạng, nó được nhận làm trong khâu rửa chén. Hai anh em gặp lại ở đây, nó kinh ngạc nhìn tôi trong đồng phục phụ bếp và hỏi: Anh học nghề này hồi nào vậy? Tôi mỉm cười bí hiểm nói: từ 3 tháng trước chớ từ hồi nào, mày làm gì ở đây? Nó nói: em làm bên kia kìa, và chỉ tay về cái máy rửa chén thiệt lớn. Hai anh em “chiến đấu” ở đây một thời gian, thì tôi quay về St Vincent’s vì chịu không nổi hai công việc, và lại làm việc ca đêm mà còn đi học.
(Xin mở ngoặc thêm, khách sạn The Regent nay là Shangri-La, nơi dành cho các khách VIP từ nước ngoài. Ông Nguyễn Phú Trọng từng ở đây. Vài năm trước khi ông còn là Chủ tịch Quốc Hội tôi có gặp ông ấy ở đây và có nói cho ông ấy biết tôi từng làm trong nhà bếp của khách sạn này. Hai năm trước, khi đi ăn với anh bạn Nicholas Nguyên ở Sydney Harbour, tôi cũng chỉ qua khách sạn và nhắc kỉ niệm xưa với anh ấy).
Mua xe hơi
Lương của tôi lúc đó là khoảng 200 đô-la một tuần. Sau khi trả tiền phòng, ăn uống, cũng còn khoảng 150 đô-la. Làm một thời gian, tôi có đủ tiền để mua cho mình một chiếc xe ôtô. Tôi và anh bạn tên Sáu Lợi (người "Mr Đu" cũng từ Thái Lan sang đây trước tôi vài tháng) cầm tiền đi mua xế hộp. Sáu Lợi lái xe đưa tôi đi hết dealer (nhà bán xe) này đến dealer khác, mà tôi vẫn không hài lòng.
Đến một dealer ở tận Parramatta, thì tôi thấy một chiếc xe cũ hiệu Toyota Corona đời 1977 (tức mới 5 năm tuổi), giá gần 7000 đô. Tôi ưng ý chiếc xe này lắm lên xe lái thử vài vòng là thấy “êm” rồi, muốn lấy nó về ngay. Nhưng khổ nỗi trong túi tôi chỉ có 5000 đô thôi. Tôi và Sáu Lợi kì kèo trả giá, và họ chỉ đồng ý giảm 1000 đô mà thôi, tức tôi vẫn còn thiếu 1000 đô. Sáu Lợi nói “Ông thiếu thì tôi về nhà lấy đưa cho ông mượn”. Sáu Lợi nói thêm: Mua xe là mua loại ngon lành, đừng chơi đồ dỏm mà sau này sửa hoài thì còn tốn tiền hơn. Tôi đồng ý. Trên đường lái xe về nhà, Sáu Lợi đi trước, tôi đi sau. Lần đầu tiên trong đời mình có xe riêng, lại còn tự lái, thong dong trên đường Sydney. Ôi, thú vị làm sao!
Đây là chiếc xe Toyota Corona đời 1977. Chiếc xe của tôi cũng màu vàng này. Đó là xe được bầu là bền nhất thế giới, nhưng chẳng hiểu sao sau này họ thay tên thành Camry.
Chiếc xe Toyota Corona đó rất ư là "reliable". Hết tuần này sang tuần khác, tôi chỉ việc đổ xăng và xem nước, và chạy đi khắp nơi. Có chiếc xe hơi trong xã hội này cũng giống như mình có cái xe gắn máy ở Việt Nam. Nó là phương tiện đi lại vô cùng quan trọng. Tôi đã dùng cái xe này gần 15 năm trời, đến khi anh bạn kiểm tra xe khuyên nên cho nó vào 'nghĩa địa' vì sườn xe cũ quá. Tuy sườn xe cũ, nhưng máy vẫn chạy ngon ơ. Tôi còn nhớ máy 17-RC làm ở Nhật. Đó là đời xe sau cùng làm ở Nhật, vì sau này những loại xe này được ráp ở Úc.
Thời đó, chi phí sống tương đối tốt. Nếu tôi nhớ không lầm, mỗi lít xăng chỉ tốn 20 - 30 cent mà thôi (nay là khoảng 1.3-1.4$). Cần nói thêm là một thùng bia Toohey và Swan lúc đó cũng chỉ tốn chừng 5$ (nay là 50$). Dân Việt chúng ta thích chơi xe. Những người trẻ chưa có gia đình, họ làm được bao nhiêu là dành cho chiếc xe xịn. Người Úc bản xứ rất ngạc nhiên khi thấy người tị nạn Việt Nam lái toàn xe mới, trong khi đó họ đi xe cũ. Người địa phương bắt đầu nghi ngờ và ganh tị. Họ phao tin rằng chính phủ Úc cho tiền bọn tị nạn này để chúng mua xe hơi. Tin nhảm như thế mà cũng có người tin! Họ không hiểu rằng người Việt rất thích bề ngoài, nên họ dành nhiều tiền cho những chiếc xe hơi đắt tiền.
Đây là một căn nhà tiêu biểu ở Sydney thời thập niên 1980. Nhà thường có 3 phòng ngủ, diện tích chừng 16 m bề ngang và 30 mét chiều dài (kể cả sân trước và vườn phía sau). Thời 1980s, một căn nhà như thế này giá chừng 50-60 ngàn đô. Thời 1970s, 1 đô la Úc bằng 1.2 đô la Mĩ, nhưng sau 1983 thì 1 đô la Úc chỉ bằng 0.75 đô la Mĩ.
Thời đó cũng dễ mua nhà. Một căn nhà 3 phòng ngủ thời đó tốn khoảng 50,000$ (nay là 1 triệu đôla). Với mức lương công nhân chừng 300$ một tuần, và nếu hai vợ chồng chỉ cần làm chừng 3 năm là có đủ tiền để tậu một căn nhà. Có người chịu khó làm lụng và mua đến 2 căn nhà một lúc! Phải nói là người Việt chúng ta chịu khó làm việc và tích lũy tiền khá nhanh so với người địa phương.
Ra toà
Có xe đi lại rất tiện vì không còn lệ thuộc vào xe lửa công cộng nữa. Lúc đó tôi đã đi học, nên lái xe đi làm, xong việc làm thì lái xe đến trường cách St Vincent's chừng 30 km. Thời đó, đường phố Sydney ít xe, chứ không phải nhiều và kẹt xe thường xuyên như bây giờ, nên lái xe rất thoải mái.
Vậy mà tai nạn vẫn xảy ra. Sáng sớm hôm đó, như thường lệ, tôi lái xe đi làm ở bệnh viện St Vincent’s, đến khu Newtown, khu phố cổ với nhiều đường nhỏ tí tẹo vốn thiết kế cho ngựa đi, nên cũng như bao nhiêu người khác tôi lái xe chậm lại. Gần đến một ngã tư có đèn đỏ, khi tôi chạy rất chậm thì một bà đi ngất ngưỡng đâm vào đầu xe tôi. Tôi hoảng quá nên thắng lại ngay, và bà nằm vạ trên đầu xe tôi. Tôi bước xuống xe thì thấy bà là một người thổ dân, hơi rượu nồng nặc. Bà chẳng có thương tích gì, vì không thể có thương tích với một tốc độ 5 km/h như thế. Tôi gọi cảnh sát để làm biên bản, và cảnh sát gọi xe cứu thương đến chở bà đi bệnh viện gần đó là Prince Alfred Hospital. Cảnh sát kết tội “negligence” (lơ đễnh) và chờ ngày ra tòa.
Lần đầu ra tòa là cả một kinh nghiệm. Tôi đến tòa án địa phương sáng sớm và lấy số để được xử sớm. Khi vào tòa, tôi đưa mắt nhìn quanh thì thấy rất nhiều người cũng đang chờ được xét xử. Người ta ăn mặc đủ thứ quần áo … chẳng giống ai. Họ cười nói như chẳng có chuyện gì, còn tôi thì bồn chồn lo cho tương lai của mình sẽ mất bằng lái xe.
Quan tòa đọc tên tôi và xác nhận có phải là chính tôi. Xác nhận danh tánh xong, ông hỏi tôi có luật sư không, tôi nói không. Ông hỏi: “Anh có đủ tiếng Anh để trả lời không?” Tôi nói: “Sẽ cố gắng”. Người ta đưa cho tôi một cuốn kinh thánh và bảo phải đọc: “Tôi tuyên bố tôi sẽ nói sự thật, chỉ sự thật, không khác gì hơn là sự thật”. Đọc xong, phía bên cảnh sát họ luận tội tôi và kết luận là lơ đễnh, đề nghị tịch thu bằng lái xe. Thời đó, bằng lái xe cũng chỉ là tạm thôi (loại màu đỏ).
Đến phiên tôi trả lời. Tòa quay sang hỏi tôi có đồng ý với bản luận tôi không. Trước khi ra tòa, tôi đã tìm hiểu tình trạng của bà nạn nhân. Bà ta không nhập viện, vì chẳng có thương tích gì, và được cho về nhà sau 30 phút khám. Cảnh sát cho tôi biết như thế. Do đó, tôi chuẩn bị những câu nói sẵn như “Sir, I was not negligent, because if that was the case, the woman would have been injured. She was not injured and discharged from the hospital within 30 minutes.” (Thưa ngài, tôi không lơ đễnh, vì nếu tôi lơ đễnh thì bà đó đã bị thương rồi. Bà không bị thương và xuất viện trong vòng 30 phút.”
Quan tòa và cảnh sát lại nói gì đó mà tôi không hiểu. Ông tòa quay sang lại hỏi tôi. Tôi cứ một câu mà nói hoài, vì đâu còn câu nào khác. Chỉ có 1 câu tủ thôi. Đến lần thứ ba, ông quan tòa bật cười ha hả và nói đại khái “Tay này không rành tiếng Anh, phải có luật sư mới công bằng”, rồi gõ cái cốp và phán “Hoãn lại! Ra tòa lần sau”!
Lần sau, người ta tìm cho tôi một luật sư công (vì tôi làm gì có tiền thuê luật sư tư). Ngày ra tòa gần kề thì tôi lại có việc ở Khách sạn Regent nên không dám lấy giờ đi dự tòa vì sợ mất việc. Thế là tòa xử vắng mặt. Tòa phán quyết rằng tôi lơ đễnh, và tịch thu bằng lái xe trong vòng 1 năm. Thời đó, bằng màu đỏ mà vi phạm giao thông là mất luôn, sau này phải thi lại. Thật ra, sau đó, tôi vẫn lái xe đi làm và đi học, vì nếu không lái xe thì lấy gì để đi học cách nhà cả 30 cây số mà không có xe lửa. Cũng may, trong vòng 12 tháng đó chẳng có cảnh sát nào xét bằng lái vì sau một lần tai nạn thì tôi rất cẩn thận trong lái xe.
Nhớ nhà
Thời đó, bất cứ người tị nạn nào cũng nghĩ rằng sẽ không có ngày quay về Việt Nam. “Một lần đi là một lần vĩnh biệt / một lần đi là mãi mãi chia phôi.” Do đó, ai cũng mang trong lòng tâm trạng nhớ nhà kinh khủng. Mấy năm sau có vài lần đi công tác bên Singapore và Âu châu và tạt ngang qua Thái Lan, tôi cứ nhìn về quê nhà đau đáu. Nhìn về Việt Nam và biết chỉ có 1 giờ bay thôi, nhưng chưa thể về được. Có đêm nghỉ ở “The Montien” (một khách sạn ở Bangkok tôi hay ở) mà ... khóc một mình.
Trong cái bối cảnh đó, có người sáng tác nhạc với những ca từ rất ray rức như: “Sài Gòn ơi, ta có ngờ đâu rằng / Một ngày qua là một ngày li biệt / Một ngày qua là ta mất nhau rồi / Một ngày qua là muôn kiếp chia phôi.” Nhạc sĩ Việt Dzũng (mới qua đời) thì có bài "Một chút quà cho quê hương", còn Đức Huy với bài "Khóc một dòng sông" (Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều / nhất là những buổi chiều mưa rơi / Cũng may Cali trời mưa ít không như Sài Gòn / Nếu không tôi đã khóc một dòng sông ...) mà mỗi lần Ngọc Lan trình bày là nhiều người khóc một cách tự nhiên. Có một ca khúc tôi còn nhớ đến nay trong đó có đoạn: “Ôi me yêu ơi, con lang thang giữa phố đông người / Tuy phố đông người, nhưng con lạc loài một bóng đơn côi.” Ngay cả cái nóng bên này cũng làm mình nhớ nhà, nên tôi thuộc nằm lòng một bài ca thịnh hành thời đó:
Nắng bên này buồn lắm em ơi! Một mình anh lê bước trên đời Nắng nơi đây cũng là nắng ấm Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
Phải nói, thời đó có những sáng tác về nỗi nhớ Sài Gòn và Việt Nam rất hay vì tác giả viết ra từ cảm xúc rất thật của họ. Phải chi bây giờ có ai đó [dám] làm một luận án về văn học và âm nhạc thời tị nạn đó thì hay biết mấy, vì đó là một giai đoạn rất đáng ghi vào sử sách Việt Nam.
Bây giờ thì người tị nạn đã có thể về quê tương đối bình thường, nên những lời nhạc trên hơi lỗi thời, và ít người còn ca những bài đó nữa. Tuy nhiên, với tôi những lời nhạc trên dù đã được viết ra hơn 30-40 năm về trước nhưng cho đến nay tôi thấy vẫn phản ảnh đúng tâm trạng của người xa quê, nhất là vào dịp 30/4.
Bối cảnh kinh tế Úc và Việt Nam thập niên 1980s
Năm 1982 là thời gian kinh tế Úc lâm vào tình trạng suy thoái. Rất nhiều người mất việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp cao hơn 6%. Tiền lời nhà băng cho vay mua nhà lên đến ... 15%. Có lẽ nhiều bạn ngạc nhiên là tiền lời gì mà cao như thế, nhưng sự thật là vậy: 13-15%. Do đó, có được việc làm là một 'thành tựu' ngon lành, chứ không phải bình thường.
Người tị nạn làm bất cứ việc gì. Bất cứ họ xuất thân là học sinh, sinh viên, nông dân, công nhân, kĩ sư, bác sĩ, luật sư, tất cả đều phải làm lại từ đầu. Lí do là Úc không công nhận bằng cấp từ Việt Nam. Đa số thuyền nhân chẳng có một tấm giấy tùy thân, chẳng có bằng cấp gì mang theo cả. Do đó, công việc đơn giản nhất là làm trong các hãng xưởng kĩ nghệ. Thời đó, Úc còn có ngành kĩ nghệ kha khá, như làm tivi, làm xe hơi, làm động cơ, v.v. nên công ăn việc làm vẫn có dù kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn. Đó cũng là những công việc khởi đầu của tuyệt đại đa số người tị nạn. Thời đó, chẳng ai nghĩ đến việc đi học lại, bởi vì kiếm đủ tiền để trả tiền nhà và gửi về nhà là mệt rồi; thời gian đâu mà học lại. Vả lại, khi đã vào làm và có tiền rồi, thì việc quay lại học là chuyện hơi ... khó khăn.
Thời đó, kinh tế Việt Nam cũng lâm vào khủng hoảng và nghèo đói. Nhà tôi ở dưới quê tuy chưa bao giờ thiếu gạo ăn, nhưng hàng xóm thì có rất nhiều gia đình không có gạo ăn. Thử tưởng tượng một miền Tây trù phú từng xuất khẩu gạo mà chỉ sau 5 năm dưới thể chế mới lại ... thiếu gạo ăn! Chuyện không tưởng, nhưng có thật. Mà, chẳng riêng gì gạo, tất cả các nhu yếu phẩm cũng thiếu. Thiếu từ miếng vải đến cây kim. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Dũng viết những câu như "Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá / Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may / Gởi về cho chị dăm ba xấp vải / Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang / Em gởi về cho anh một cây bút máy / Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh / Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa / Gởi về cho em chiếc nhẫn yêu thương ..." Rất nhiều thùng quà mà trong đó có đủ thứ hàng hóa (quần jean, vải, kim tây, máy cassette, chocolate, thuốc lá) được đóng gói và chuyển về Việt Nam. Thành ra, một trong những 'nghĩa vụ' của thuyền nhân thời đó không chỉ ổn định cuộc sống ở quê hương mới mà còn phải có tiền để gửi về quê hương Việt Nam.
Một chút suy từ: 'Một cõi đi về'
Chiến tranh và thù nghịch dai dẳng đã tạo nên một cuộc di cư vĩ đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Tôi cũng nằm trong cơn lốc lịch sử đó mà lang thang ra ngoài Việt Nam. Thoát một cái, tôi đã xa quê gần 40 năm. Trong 40 năm đó đã có một, thậm chí hai, thế hệ đã hình thành. Thế hệ mới gần như không biết gì về biến động mang tính lịch sử đó! Tôi nghĩ đó là một thiệt thòi lớn cho giới trẻ. Do đó, những hồi ức như cái note này hi vọng rằng sẽ giúp cho họ có cái nhìn cân bằng và đầy đủ hơn những biến động trong thời gian qua sau cuộc chiến.
Giới trẻ ngày nay may mắn hơn chúng tôi nhiều. Nhìn lại mới thấy sự phá hoại của chiến tranh về trí lực và nhân lực rất ư là ghê gớm. Biết bao bạn bè tôi đã ngã gục trong chiến tranh, đã không có cơ hội theo học cho đến nơi đến chốn, đã phải chấp nhận cuộc sống gian khổ ở Việt Nam, hay đã bỏ mình trên biển Đông. Ngay cả những kẻ sống sót như tôi thì cũng chỉ là thế hệ "trâu chậm uống nước đục". Một người ngoại quốc trung bình, sống trong cảnh thanh bình có thể đã thành danh và đang ở đỉnh cao của sự nghiệp vào độ tuổi 30 hay 40. Nhưng những kẻ thuộc thế hệ tôi thì chậm hơn nhiều và gian nan hơn nhiều. Với người phương Tây, tuổi 30 là đỉnh, còn với chúng tôi thì "Tuổi ba mươi ta sống tháng ngày xa lạ / tuổi ba mươi ta có quá khứ mịt mù" (lời thơ của DTL).
Nhưng tôi vẫn thấy mình quá may mắn. Thật vậy, bây giờ, nhìn lại quảng đường đời và kinh nghiệm mình đã trải qua, tôi cảm thấy bên cạnh nỗi bất hạnh xa quê hương, tôi lại thừa hưởng được một may mắn rất lớn: có cơ hội học tập và tiếp cận với những khoa học hàng đầu thế giới. Các nước phương Tây, đặc biệt là Mĩ và Úc, đã mở rộng cửa đón tôi, cho tôi cơ hội bình đẳng với công dân của họ hầu như trong mọi lĩnh vực, kể cả ở những trường hàng đầu mà tổ tiên của họ đã từng bỏ ra hàng trăm năm để gầy dựng. Họ khen ngợi khi tôi gặt hái chút thành quả. Họ chịu đựng và thông cảm khi tôi khác họ. Nói chung, tôi đã được thụ hưởng những cơ hội mà khi còn ở trong nước tôi chẳng dám mơ tới. Sống sót đã là may mắn, được sống trong lòng khoa học như hiện nay là một may mắn vô ngần.
Nhiều khi tôi nghĩ cuộc đời là những chuyến đi về. Nói văn vẻ hơn là "một cõi đi về". Cuộc đời tôi có vẻ ứng nghiệm câu này. Việc làm đầu tiên của tôi là ở Bệnh viện St Vincent's. Mười năm sau, tôi lại quay về Bệnh viện St Vincent's và vẫn còn ở đó cho đến nay. Hơn 10 năm trước, khi tôi được đề bạt chức vụ professor, người ta muốn làm "PR" và họ phát hiện rằng tôi từng làm trong nhà bếp St Vincent's. Đó là một chất liệu quan trọng cho người làm PR. Nhưng tôi nói chuyện đó chẳng có gì to tát, bởi vì tất cả người Việt đến đây vào thời đó ai cũng như tôi, tức là bắt đầu bằng những công việc cực nhọc. Cực nhọc nhưng hạnh phúc.
Thuyền nhân người Việt nói chung cũng là một cõi đi về. Ngày xưa, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi, tạo nên làn sóng 'thuyền nhân'. Rồi mấy mươi năm sau thì lại quay về. Một số đầu tư, một số đóng góp việc này, việc kia. Một số rất ít về VN tái định cư cho đến ngày qua đời. Nhạc sĩ Phạm Duy từng nói rằng ông muốn qua đời ở Việt Nam, và ông đã nói cho hàng triệu người Việt khác. Nhưng vẫn còn một số ít bị tước đoạt quyền thiêng liêng về thăm quê cha đất tổ, và tôi cho rằng những người tước đoạt cái quyền thiên liêng đó là phi nhân bản.
Người tị nạn (refugee) khác với người di cư (immigrant). Người tị nạn là người tuyệt vọng, vô quốc tịch, không có tài sản, và họ bị "bứng" khỏi quê hương qua một biến động lịch sử. Người di cư có quốc tịch, họ có tài sản, và họ ra đi một cách tự nguyện. Người tị nạn do đó thường mang trong mình những chấn thương tinh thần. Người tị nạn sống giữa hai thế giới. Một bên là quê hương, nơi chôn nhao cắt rốn; một bên là quê hương tạm dung.
Người tị nạn bị giằng xé tâm tư, một bên là kí ức của quê hương đầy biến động và đau khổ, một bên là đất nước tạm dung giàu có nhưng chưa chắc là thoải mái. Do đó, người tị nạn đã xa rời quê hương, nhưng trong tâm tưởng họ chưa bao giờ rời quê hương. Họ ở đây mà không phải ở đây. Có khi họ về nơi mình sinh ra mà không thấy đó là quê mình. Họ thành đạt về kinh tế, họ có thể có địa vị trong xã hội nơi tạm dung, nhưng cái tâm của họ thì vẫn còn chông chênh. Họ cũng như là những con ma, thể xác đã chết đi nhưng họ vẫn còn lẫn quẫn đâu đây. Người tị nạn lúc nào cũng bị ám ảnh bởi căn cước tính của mình.
Đây là phối cảnh một tượng đài thuyền nhân (Vietnamese Boat People Monument Australia) do chính phủ bang Nam Úc sẽ thực hiện năm nay. Dự án này dự kiến tốn $450,000. Chính phủ bang sẽ tài trợ 200,000 đô-la, phần còn lại là các hội đồng địa phương tài trợ và từ các nhà hảo tâm.
Nhà văn Nguyễn Thanh Việt viết rằng "tất cả các cuộc chiến đều diễn ra hai lần; lần thứ nhất là ở chiến trường, lần thứ hai là ở kí ức". Chiến tranh Việt Nam dù đã kết thúc 44 năm về trước, nhưng đó chỉ là kết thúc trên chiến trường, chứ cuộc chiến kí ức thì vẫn còn tồn tại dai dẵng cho đến ngày nay. Sự hiện diện của những 'thuyền nhân' Việt Nam cùng những di sản của họ trên thế giới chính là một kí ức của cuộc chiến Việt Nam.
Hôm kia tôi kể tiếp câu chuyện đời của tôi. Nhưng trước khi kể tiếp, tôi muốn nói vài ba lời nhân câu hỏi của một bạn đọc (có lẽ cỡ tuổi con tôi) là tại sao tôi "rời bỏ quê hương". Thoạt đầu, đọc câu hỏi này tôi hơi ... shocked. Không biết em ấy hỏi thật hay giả bộ để kiếm chuyện (như mấy "trẻ trâu"). Tôi thì nghĩ em ấy hỏi thật vì -- cũng như những đứa cháu của tôi lớn lên sau này ở trong nước -- em ấy không biết tại sao dòng họ có nhiều người "rời bỏ quê hương."
Sách giáo khoa hoàn toàn giấu nhẹm sự kiện gần nửa triệu người bỏ quê hương và [có thể] 200,000 người bỏ mạng trên Biển Đông. Do đó, không ngạc nhiên khi đến ngày hôm nay (thế kỉ 21) mà vẫn có người hỏi câu hỏi tưởng là ngây thơ đó. Câu hỏi đó không hẳn là ngây thơ, mà nó là tín hiệu của một sự bưng bít có hệ thống của những người người muốn tẩy xoá lịch sử. Nhưng như sử gia George Santayana nói những kẻ không nhớ quá khứ thì sẽ bị lên án khi lặp lại [những sai lầm] của quá khứ ("Those who cannot remember the past are condemned to repeat it.") Cái note này, gọi là 'hồi ức' cũng được, chỉ để ghi lại như là một chứng từ của một quá khứ đau khổ mà người Việt chân chính không được quên.
Từ khi có làn sóng người Việt Nam vượt biển bắt đầu từ thập niên 1970s, tiếng Anh có thêm một ngữ vựng mới: "boat people". Chúng ta dịch là 'thuyền nhân'. Thảm cảnh thuyền nhân, với hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển, vào thập niên 1970s và 1980s. Nên nhớ là cả 200,000 người chết -- con số vĩ đại. Nhiều người trong số đó là những tinh hoa của Việt Nam. Đó là một sự mất mát ghê gớm. Đó là một chương sử buồn của thế giới, chứ chẳng riêng gì Việt Nam. Nhưng có cái khác là thế giới ghi nhận, còn Việt Nam thì không ghi nhận trang sử đó. Hi vọng rằng những dòng này đóng góp một ít thông tin cho một trang sử 'thuyền nhân' trong tương lai.